Tác giả của cuốn sổ tay nhật ký này có tên là Lê Vĩ Ngọc, hòm thư HT 62210 XP. Những ghi chép trong số tay cho biết tác giả đã đến tỉnh Quảng Bình, miền Bắc Việt Nam bằng xe tải, sau đó hành quân về hướng Tây…

Các mục ghi chép từ ngày 9/2 đến ngày 11/5/1968, mô tả quá trình hành quân của ông Lê Vĩ Ngọc và đơn vị từ Quảng Bình, đi sang Lào, sau đó qua Quảng Trị đến tỉnh Quảng Nam. Tuyến đường này trùng khớp với Đường mòn Hồ Chí Minh. Họ đến Lào vào ngày 15/2/1968, đi xe tải một ngày và đến tỉnh Quảng Trị vào ngày 4/3/1968. Họ đến Quảng Nam vào ngày 16/3/1968 và hoạt động tại vùng núi trước khi chuyển xuống đồng bằng để tham chiến. Các ghi chép nhật ký của ông Ngọc cho thấy đơn vị ông liên tục bị không kích bởi máy bay Mỹ. Nhiều khả năng dọc theo các trục giao tranh khốc liệt như Khe Sanh, thung lũng A Sầu và khu vực tiếp cận Đà Nẵng, những nơi bị dội bom nặng nề trong giai đoạn này. Mục ghi cuối cùng cho thấy đơn vị của ông Ngọc đã di chuyển xuống đồng bằng để chuẩn bị cho một cuộc tổng tiến công mới tại miền Nam.

Sau khi thu được tài liệu, căn cứ các mục ông Lê Vĩ Ngọc ghi cụ thể ngày tháng và lộ trình từ Quảng Bình (miền Bắc) → Lào → Quảng Trị → Quảng Nam, Tình báo Quân sự Mỹ nhận định: Sự hiện diện của đơn vị của ông Ngọc tại Quảng Nam sau 16/3/1968, cùng việc di chuyển xuống đồng bằng trùng khớp với Giai đoạn II của Tổng tiến công (5 -8/1968) thời điểm nhiều trận đánh lớn diễn ra và số thương vong tăng cao cho cả hai phía. Họ đã lập bản đồ chi tiết, tái hiện các chặng đường hành quân của Trung đoàn 36, Sư đoàn 308, hoạt động dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh như thế nào, để cung cấp cho Không quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tìm cách đánh phá và ngăn chặn.

Đối với các nhà nghiên cứu MIA/KIA, tài liệu cung cấp lộ trình rõ ràng, mốc thời gian và đơn vị liên quan mở ra các manh mối quan trọng cho việc khoanh vùng vị trí mộ, khai quật chiến trường và tìm kiếm hài cốt. Hơn nữa, thông tin tình báo địa lý, tác động của không kích và ghi chép cá nhân khiến tài liệu này trở thành nguồn cho các nhà sử học, quân sự, hồi hương và sáng kiến hòa giải hậu chiến. Đồng thời, phục vụ cho việc tìm kiếm những người mất tích, tử trận hay bị bắt. Đối với nhà nghiên cứu quân sự và pháp y, đây là nguồn tư liệu vô giá về điều kiện chiến trường và hoạt động đơn vị. Đối với gia đình và công cuộc hòa giải sau chiến tranh, tài liệu như vậy có thể mang lại sự xoa dịu nỗi đau, nhất là khi người lính chưa rõ tung tích.
Ảnh đính kèm do tác giả cung cấp: Một số trang di bút và di vật có trong các Hồ sơ Chứng tích chiến tranh nêu trên.
2- Hồ sơ mã số F034606741607 được quân đội Mỹ thu giữ vào ngày 30/1/1970 tại phía nam của vùng đặc khu Rừng Sác, địa bàn giáp ranh tỉnh Long Khánh – Gia Định cũ, tọa độ lưới 48PYS211708 (10.58491° Bắc, 107.02074° Đông. Đó là nơi có địa hình sình lầy, sông rạch nơi đây từ lâu đã là nơi trú ẩn cho các đơn vị đặc công của Quân Giải phóng và là điểm xuất phát cho các cuộc tấn công vào Sài Gòn và các cơ sở hạ tầng trọng yếu, chẳng hạn như kho xăng dầu Nhà Bè.
Tài liệu này được phân loại là tình báo thô mật, diễn ra trong một cuộc đấu súng,và hồ sơ ghi rõ “body” (xác chết) trong hoàn cảnh thu giữ cho thấy tài liệu được lấy từ một chiến sĩ đã tử trận. Di vật gồm 12 trang bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt, chứa đựng những nội dung có ý nghĩa chính trị và quân sự quan trọng, liên quan đến lực lượng Quân Giải phóng và mạng lưới chính trị. Đó là các báo cáo chiến đấu thực tế, giấy khen và chỉ định nhân sự, có giá trị trong việc tái dựng lịch sử đơn vị, đánh giá hiệu quả chiến thuật và xác định những chiến sĩ có thể đã được ghi nhận là mất tích hoặc hy sinh trong chiến đấu.
Qua đó, người ta có thể biết thông tin một số đơn vị của Mặt trận và Quân đội Nhân dân Việt Nam, bao gồm Trung đoàn đặc công Rừng Sác (có thể là Đoàn 10?), Tiểu đoàn BN-8, và Đoàn Thanh niên K10-U28 (có thể thuộc Đại đội 2, Tiểu đoàn Công binh – Đặc công số 8?). Nội dung cũng đề cập đến các đơn vị UT-AP15, UT-5, UT-K10, UT-U28, Đại đội CO-2 và Ấp D15 (có thể là Tiểu đoàn đặc công số 5), đều thuộc Phân khu 4, Quân khu 7. Những tài liệu này phản ánh các báo cáo chi tiết về các chiến dịch tấn công tại khu vực Nhà Bè, nhấn mạnh các vụ tập kích tàu thuyền và kho nhiên liệu.
Những tài liệu giá trị, có trong Hồ sơ F034606741607:
- Thư giới thiệu dài 1 trang (viết tay và đánh máy), đề ngày 25/8/1969, có chữ ký của Vũ Đức Phi, giới thiệu Phạm Ngọc Ngữ, cán bộ Đoàn Thanh niên K10-U28, đến Chi hội Đoàn Thanh niên số 5 – Đoàn 10. Ngữ được kết nạp Đoàn tháng 1/1967.
- Giấy khen, số hiệu 182/QDKT, đề ngày 2/7/1969, do Lê Bá Ước, chính trị viên ký ban hành. Giấy khen được trao cho Đội 5, vì đã xuất sắc trong các cuộc tập kích và vận chuyển đạn dược tại khu vực Nhà Bè.
- Đặc biệt, có một báo cáo thành tích dài 8 trang viết tay, do Trần Văn Dần, Tiểu đội trưởng, quê tại thôn Xuân Phổ, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh biên soạn. Ông nhập ngũ vào tháng 7/1965 và đã báo cáo về nhiều chiến dịch quân sự trong năm 1969. Báo cáo của ông được Vũ Minh Khoa, Chính trị viên phụ trách Ấp D15, phê duyệt vào ngày 25/1/1970.
Hồ sơ CDEC F034606741607 là một nguồn tài liệu quan trọng, phản ánh sự di chuyển nhân sự, ghi nhận thành tích, và kết cấu chính trị của các đơn vị Đặc công Rừng Sác và Đoàn Thanh niên thuộc lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, hoạt động tại Vùng CTZ 3 và CTZ 5 trong giai đoạn 1969–1970. Việc tài liệu được thu giữ gần khu vực chiến sự, cùng với việc thu hồi từ thi thể, khẳng định tính liên quan cao của nó đối với hồ sơ MIA/KIA. Các cá nhân và đơn vị cụ thể được nêu tên làm tăng giá trị lịch sử và nhân đạo của tài liệu.
*
3- Hồ sơ mã số F034609040786 được thu giữ vào ngày 3/4/1972, gồm 19 trang tình báo thô, được thu hồi từ tỉnh Kon Tum, khu vực Tây Nguyên miền Nam Việt Nam, trong giai đoạn cao điểm của Chiến dịch Xuân-Hè 1972. Có liên quan đến các cá nhân Lương Ngọc Chiều, Phạm Khắc Nhu, Minh Sáu, Nguyễn Cao Bổng, Đỗ Tiến Sỹ…
Các tài liệu được tìm thấy tại Vùng Chiến thuật II (CTZ 2), tọa độ lưới 48PZB0624 (14.67568° Bắc, 107.83763° Đông). Chúng có nguồn gốc từ lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam, và chủ yếu bao gồm các bức thư viết tay bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Nội dung có đề cập đến Tiểu đoàn Công binh 15 thuộc Sư đoàn 2 Quân đội Nhân dân Việt Nam, một đơn vị đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng hậu cần bao gồm đường sá, hầm hào và công sự. Tài liệu có liên hệ đến Sư đoàn DN-2, Tiểu đoàn BN-15 và đơn vị UT-TA20, với các mã bưu chính hậu cần lặp lại như Hòm Thư (LBN) 748.870 TA 20 và 580.411 JH 25. Những mã số này cung cấp đầu mối quan trọng về hoạt động di chuyển và triển khai của các đơn vị công binh và hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Quân khu 5.
Một phần đáng kể của tài liệu là các bức thư cá nhân giữa các thành viên gia đình và chiến sĩ đang đóng quân tại miền Nam, mang lại cái nhìn hiếm hoi về mạng lưới quan hệ trong nội bộ Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, qua những lá thư này, có thể xác minh, tìm kiếm địa chỉ người gửi và người nhận, thời điểm đầu thập niên 70 tại miền Bắc:
- Các phong bì thư ngày 9/6/1971, ngày 8/6/1971 và ngày 19/11/1971, đều do ông Phạm Quang Trinh, cán bộ của Viện Quy hoạch và Tái thiết Hải Phòng, gửi cho con trai là Phạm Khắc Nhu. Thuộc đơn vị hòm thư 580.411 JH 25, và sau đó tại LBN 748,870 TA 20.
- Thư viết tay từ bà Phạm Thị Thuyết, ở thôn Cổng Hiền, xã Cộng Hiền, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Phòng, gửi cho anh trai là Phạm Khắc Nhu, LBN 748,870 TA 20.
- Thư (không rõ người gửi) ngày 12/10/1971 và thư của Văn Huỳnh, LBN 658,114 JAOJ..., đều gửi cho người nhận là Lương Văn Chiều, ở thôn Hội, xã Đông Phong, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình...
- Thư đề ngày 14/9/1971, từ Lương Thị… ở huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, gửi cho anh là (Lương Văn) Chiều, hỏi thăm sức khỏe và kể tin tức từ quê nhà.
- Ngoài ra, tài liệu còn có Thư của Đỗ Thị Chiếu, viết ngày 11/ 9/1971, gửi cho Đỗ Tiến Sỹ, đơn vị hòm thư LBN 748.871 TA 20; Thư đề ngày 31/1/1971, từ Nguyễn Cao Bổng gửi cho người tên là Mái; Thư từ Minh Sáu gửi chị gái là Hồng, thuộc một đơn vị chưa xác định, hỏi thăm sức khỏe. Bức thư còn tiết lộ rằng Lê Anh Nhớ, LBN 638.263…, dự định hành quân vào miền Nam hoặc sang Campuchia dịp Tết (có thể là năm 1972).
Việc các tài liệu bị thu giữ tại khu vực này cho thấy chúng bị bỏ lại do rút lui vội vàng, hoặc tổn thất trong giao tranh. Qua tài liệu, ta thấy sự hiện diện của nhiều mã hòm thư chiến trường (LBN) gắn với các đơn vị công binh Quân đội Nhân dân Việt Nam hoạt động tại Tây Nguyên trong một chiến dịch lớn. Rất có thể một số cá nhân liên quan đến các tài liệu đó đã hy sinh gần khu vực này. Chiến dịch Xuân- Hè 1972 tại tỉnh Kon Tum, gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên, và tập tài liệu này cung cấp manh mối giúp xác định danh tính những người có thể vẫn đang mất tích, hoặc tìm kiếm hài cốt.
Hồ sơ CDEC F034609040786 là một nguồn tư liệu gốc quan trọng phản ánh dấu ấn hoạt động của Tiểu đoàn Công binh 15 và các đơn vị liên kết trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến tại Tây Nguyên. Dù mang tính cá nhân là chính, các yếu tố về địa lý, tổ chức và cá nhân trong tài liệu khiến chúng có giá trị lớn trong bảo tồn di sản và điều tra nhân đạo. Ngoài giá trị liên quan đến MIA, địa chỉ có trong các bức thư và việc đề cập cụ thể đến các thành viên gia đình (ví dụ: cha, chị gái, con trai) càng làm tăng giá trị của chúng như một phần chứng tích và di sản thời chiến. Những tài liệu này góp phần tìm kiếm những người đã tham gia chiến đấu và có thể mang lại sự an ủi cho thân nhân còn sống, đặc biệt nếu có thể đối chiếu với hồ sơ lưu trữ sau chiến tranh tại đơn vị, hoặc quê nhà của các Liệt sĩ.
Hà Nội, 23/6/2025
TTNL