Chúng bao gồm giấy thông hành, danh sách cá nhân, sổ tay- lịch và bảng theo dõi đạn dược, liên quan đến các đơn vị UT-A392 và A3.8.1. Các tài liệu ban đầu được phát hành bởi một đơn vị của Trung ương Cục miền Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Đây cũng là một trường hợp hiếm hoi ghi nhận tài liệu đang được sử dụng mang tính chất hành quân và hậu cần thời kỳ đó.

Nội dung tài liệu liên quan đến Trung đội trưởng Trần Văn Phú và cấp phó của ông là Phan Xuân Niêm, cùng danh sách đầy đủ 27 thành viên trong trung đội. Các tên tuổi được kèm theo ngày nhập ngũ, mã địa phương quê quán, chiều cao, và số súng, cung cấp nhiều dữ liệu để đối chiếu với hồ sơ lưu trữ từ phía Việt Nam cũng như Hoa Kỳ. Đáng chú ý, một số mục còn ghi rõ thân nhân và địa chỉ làng quê cụ thể có thể hỗ trợ trong việc tiếp cận thân nhân gia đình của Liệt sĩ, hoặc các cựu chiến binh, nếu họ may mắn còn sống sót qua chiến tranh.

Một số nhân sự then chốt được xác định là: Trần Văn Phú, sinh ngày 15/8/1945, nhập ngũ ngày 19/4/1962, trung đội trưởng đơn vị UT-A392; Phan Xuân Niêm, Phó trung đội trưởng, sinh ngày 10/11/1945 tại B5 (có khả năng là Thừa Thiên–Huế), nhập ngũ tại Tam Kỳ; Nguyễn Xuân Lập, sinh năm 1948 tại B3 (có thể là Gia Lai - Kon Tum), con bà Nguyễn Thị Ngọ, quê Hà Tĩnh; Phạm Xuân Tính, sinh ngày 10/10/1948 tại B4 (có thể là Quảng Bình hoặc Quảng Trị), có ghi rõ tên cha mẹ, quê tại tỉnh Hà Tĩnh.

Phân tích mã vùng quê quán: Việc sử dụng các mã như B2, B3, B4, B5 và T2– T7 dường như nhằm biểu thị các tỉnh hoặc khu vực xuất thân, điều này quan trọng đối với các hồ sơ quân sự cấp khu vực. Ví dụ B4: nhiều khả năng ám chỉ Quảng Bình hoặc Quảng Trị, phù hợp với tuyến đường hành quân của đơn vị hồi đó; T2: liên kết với Hà Tĩnh, được xác thực qua thông tin địa chỉ mẹ của chiến sĩ; T4, T5, T7: lần lượt tương ứng với Nghệ An, Thanh Hóa, và Ninh Bình - đều là các địa phương tuyển quân phổ biến giai đoạn 1966 – 1967.
Bốn ảnh đính kèm do tác giả cung cấp: Một số di vật và bút tích có trong Hồ sơ nêu trên.
Danh sách quân nhân cùng Trung đội, có trong Hồ sơ mã số F034602421337 như sau:
1. Nguyễn Đình Hằng, trang bị súng AK; cao 1,53m; sinh năm 1943 tại T4; nhập ngũ ngày 14 tháng 4 năm 1965.
2. Lê Thúc Tăng, trang bị súng AK; cao 1,67m; sinh tháng 11 năm 1944 tại B5; nhập ngũ ngày 11 tháng 1 năm 1961; giải ngũ ngày 26 tháng 4 năm 1964; tái ngũ ngày 20 tháng 10 năm 1966.
3. Lê Văn Định, trang bị súng tiểu liên nhẹ; sinh ngày 17 tháng 11 năm 1946 tại T7; nhập ngũ ngày 12 tháng 6 năm 1965.
4. Nguyễn Văn Phùng, trang bị súng CKC, số hiệu 7465; cao 1,65m; sinh năm 1949 tại B4; nhập ngũ ngày 19 tháng 5 năm 1966.
5. Hoàng Thuyên, trang bị súng AK, số hiệu 65766; sinh ngày 4 tháng 5 năm 1945 tại B8; nhập ngũ ngày 24 tháng 8 năm 1966.
6. Vĩ Hồng Sao, trang bị súng chống tăng (B40 hoặc B41).
7. Phạm Ngọc Đệ, trang bị súng CKC; cao 1,60m; sinh năm 1948 tại B3; nhập ngũ ngày 29 tháng 9 năm 1966.
8. Nguyễn Xuân Lập, trang bị súng CKC; sinh năm 1948 tại B3; nhập ngũ ngày 20 tháng 10 năm 1966. Cha đã mất; mẹ tên Nguyễn Thị Ngọ, cư trú tại thôn Kim Hải, tỉnh Hà Tĩnh.
9. Phạm Xuân Tính, trang bị súng CKC; cao 1,62m; sinh ngày 10 tháng 10 năm 1948 tại B4; nhập ngũ ngày 7 tháng 12 năm 1965. Cha tên Phạm Giêng; mẹ tên Nguyễn Thị Viếng, cư trú tại thôn Hồng Châu, tỉnh Hà Tĩnh.
10. Dương Khắc Ngụ, trang bị súng AK; cao 1,56m; sinh ngày 10 tháng 7 năm 1943 tại T5; nhập ngũ ngày 7 tháng 10 năm 1964.
11. Vũ Đình Hành, trang bị súng AK.
12. Lê Văn Tiến, trang bị súng CKC, số hiệu 464; cao 1,65m; sinh ngày 5 tháng 7 năm 1946 tại B5; nhập ngũ ngày 12 tháng 9 năm 1965.
13. Nguyễn Đình Quy, sinh năm 1937.
14. Nguyễn Miêng, trang bị súng tiểu liên nhẹ, số hiệu 266367; cao 1,54m; sinh năm 1943 tại B4; nhập ngũ ngày 18 tháng 6 năm 1966 tại thôn Tân Lộc.
15. Trần Văn Trường, binh nhì hạng 1, cao 1,52m; sinh năm 1946 tại B5; nhập ngũ ngày 2 tháng 7 năm 1965 tại thôn Tiến An, Bình Thuận; số hiệu 101266.
16. Nguyễn Văn Lượng, số hiệu 1066; cao 1,55m; sinh năm 1944 tại B2; nhập ngũ ngày 20 tháng 10 năm 1966.
17. Nguyễn Văn Hội, số hiệu 26966; cao 1,62m; sinh năm 1949; nhập ngũ ngày 28 tháng 9 năm 1966 tại Xứ Thiện Dương, Thanh Hóa.
18. Nguyễn Ngọc Vạn, số hiệu 15666; sinh năm 1948 tại B4; nhập ngũ ngày 25 tháng 8 năm 1966.
19. Ngô Tôn Đệ, số hiệu 201165; cao 1,68m; sinh ngày 15 tháng 10 năm 1946; nhập ngũ ngày 10 tháng 8 năm 1964.
20. Nguyễn Văn Khái, số hiệu 666; cao 1,70m.
21. Lê Anh Tôn, sinh ngày 5 tháng 9 năm 1949; nhập ngũ ngày 28 tháng 9 năm 1966.
22. Dương Quốc Trung, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1948 tại B4; nhập ngũ ngày 21 tháng 9 năm 1966.
23. Lê Văn Lâm, số hiệu 12366; sinh năm 1945 tại T7; nhập ngũ ngày 12 tháng 9 năm 1965.
24. Phạm Lê Biễng, cao 1,57m; sinh ngày 16 tháng 6 năm 1948 tại T2; nhập ngũ ngày 20 tháng 10 năm 1966.
25. Nguyễn Minh Quyến, số hiệu 17765; cao 1,66m; sinh ngày 12 tháng 12 năm 1948 tại B5; nhập ngũ ngày 20 tháng 10 năm 1966.
26. Võ Xuân Thán (hoặc Thân), số hiệu 2965; sinh năm 1948; nhập ngũ ngày 19 tháng 5 năm 1966.
27. Lê Văn Hồng, sinh năm 1949 tại T6; nhập ngũ tháng 9 năm 1966.
Ngoài danh sách của 27 quân nhân dưới quyền chỉ huy của Trung đội trưởng Trần Văn Phú và Trung đội phó Phan Xuân Niêm như trên, tài liệu còn có 2 Giấy thông hành. Một là, Giấy số 215/TB A, đề ngày 30/12/1966, ký bởi một cán bộ tên là Cẩn (hoặc Cấn), cấp cho Nguyễn Văn Cẩn (hoặc Cấn) thuộc đơn vị A3.8.1, cho phép đi đến BT (có thể là “Binh Trạm”?). Giấy thông hành số 126/TB A, đề ngày 30/12/1966, ký bởi Cẩn, cấp cho Trần Văn Phú thuộc đơn vị A392, cho phép đi đến BT.
Cuốn sổ 66 trang cũng ghi chú về hành quân, quy trình trú quân, huấn luyện vũ khí (đặc biệt là súng máy RPD và súng K-56), cùng với các bản vẽ phác thảo vũ khí và đạn dược những yếu tố có thể giúp tái dựng lại hành trình của đơn vị hoặc xác định tổn thất trên chiến trường… Sự xuất hiện của các ghi chú tiếng Anh một phần, bản đồ phác thảo và các thuật ngữ mã hóa, cho thấy tài liệu này vừa là hồ sơ tác chiến, vừa là sổ tay huấn luyện. Khả năng chúng bị thu giữ trong giao tranh trực tiếp hoặc sau khi truy quét. Nhìn chung, tài liệu này không chỉ làm phong phú thêm dữ liệu về tổ chức và chiến dịch của QĐNDVN tại Quảng Trị những năm 1966 - 1967, mà còn mang lại cơ hội đáng kể để xác định những người mất tích, truy vết lịch sử đơn vị, và có thể hoàn trả các vật dụng cá nhân cho thân nhân Liệt sĩ và những cựu chiến binh còn sống.
Hà Nội, 17/6/2025
TTNL