Trời tối đen như mực !
Đêm khuya cuối năm tháng củ mật, chỉ nghe rõ tiếng ầm ào sóng nước sông Hồng vỗ vào kè đá, mùi ngai ngái của đất phù sa mới, dây lá khoai lang đã vươn tay dài phủ kín các luống, báo hiệu tháng ba này ấm dạ, thời điểm thiếu đói giáp hạt của người dân quê tôi . Thôn Duyên Yên xã Ngọc Thanh, huyện Kim Động, nay sáp nhập là xã Hiệp Cường, tỉnh Hưng Yên .
Hai ảnh trên do tác giả cung cấp: Bà Nguyễn Thị Nhâm và Giấy chứng nhận
Ẩn mình trong lớp lá khoai lang đó là mẹ của tôi vóc dáng nhỏ nhắn nhanh nhẹn, mặc chồng ba lớp áo quần bằng vải đũi vuông, nhuộm nước củ nâu già sẫm màu, với chiếc khăn vấn mỏ quạ trên đầu gọn gàng, đang thực thi nhiệm vụ vinh dự được tin tưởng cấp trên giao phó, đón và dẫn đường theo đường dây bí mật hai đồng chí thượng cấp về Hưng Yên lãnh đạo kháng chiến .
Căng mắt nhìn màn trời tối như hũ nút, chỉ có gió và rét ào ào thổi tới,
Gà đã gáy nửa đêm, bên kia sông chợt có ánh đèn pin phát tín hiệu nhấp nháy ba nhịp một, nhận ra đúng tín hiệu mẹ tôi vẽ lên không trung cũng đủ ba nhịp chín vòng tròn bằng chiếc đèn pin nhỏ .
Lắng tai nghe ì oạp có tiếng mái chèo của chiếc thuyền nan câu đêm táp vào bờ, trên thuyền có hai người nam giới không biết tên tuổi và cũng không nhìn thấy mặt. chỉ một câu nói nhỏ, chào đồng chí, nào chúng ta đi thôi.
Vừa đi được đoạn ngắn, bất chợt có ánh đèn pha rọi sáng cả khúc sông đêm, tiếng ca nô rẽ nước quay ngoắt vào bờ tình huống cận kề nguy hiểm không lường trước.
Cả ba người định thần, đồng chí chỉ huy nói thầm đủ nghe, tình huống khẩn cấp, mỗi người tản ra bò ém sát vào luống khoai lang để ngụy trang phủ kín mình che mắt địch .
Một toán lính Pháp rời ca nô cùng tên thông ngôn đi theo dốc mòn lên mặt đê, nghe rõ tiếng Pháp hàng tràng và tiếng tên thông ngôn nói, đây là làng tề giáp nhà thờ Ngọc Đồng còn các quan muốn đến nhà Thành phủ toàn quyền tỉnh Hưng Yên, mời các ngài xuống tàu đi vài phút nữa là tới.
Làng quê im lìm, không một tiếng động chìm trong màn đêm đặc quánh, quan sát một hồi theo lệnh tên chỉ huy bọn chúng quay trở lại phía bờ sông, chúng rậm rịch ra ca nô dưới bến sông, mùi thuốc lá Cô Táp chúng hút phả ra thơm lừng cả khoảng trời đêm,
Ca nô của địch nổ máy rời đi cũng rất nhanh như lúc chúng đến vậy, tất cả lại chìm vào bóng đêm bất tận.
Mẹ tôi hắng giọng, cả ba người đội lá khoai lang chui ra mừng rỡ thoát nạn trong gang tấc, cận kề phút giây nguy hiểm chạm mặt kẻ thù.
Mẹ dẫn lối cho cán bộ đến điểm hẹn theo đường giây bí mật tắt qua cánh đồng ước chừng hơn 3 cây số, trời tối như mực, không gian đặc quánh màn trời đêm cuối năm, đường bờ ruộng khó đi trơn trượt, mùi gốc dạ thum thủm có lúc trượt chân ngã nhào xuống ruộng, ba người chìm nghỉm vào bóng đêm, chỉ có tiếng côn trùng, tiếng ếch nhái rỉ rả, sương rơi về đêm rét buốt, đồng không mông quạnh.
Đã đến điểm hẹn, tại chùa làng thôn Phán Thủy, xã Song Mai, huyện Kim Động, người nhận nhiệm vụ tại trạm giao liên, sau khi nhận đúng mật khẩu liên lạc, tiếp tục đưa hai cán bộ đi bí mật theo từng cung đường nhiệm vụ tối mật, mẹ kể đi đâu tiếp mình cũng không được biết, chỉ biết mình đã hoàn thành nhiệm vụ cấp trên tin tưởng giao phó trọng trách để thực thi nhiệm vụ đoạn đường đó mà thôi.
Những cái bắt tay thật chặt vội vã chia tay với mọi người, mẹ tôi vui mừng ra về, vững vàng bước chân, tinh thần phấn chấn hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt được cấp trên tin tưởng giao phó, mẹ lặng lẽ chìm vào bóng đêm khuya khoắt, hướng tắt đi qua cánh đồng làng, về đến nhà văng vẳng tiếng gà gáy sang canh từ xa vọng lại.
Sau hòa bình mẹ tôi mới được biết hai đồng chí về Hưng Yên hoạt động bí mật trong đêm, mẹ nhận nhiệm vụ tối mật dẫn đường, trong đó có cụ Hoàng Quốc Việt.
Năm 1986 cụ Hoàng Quốc Việt về thăm địa phương, thăm các gia đình cơ sở cách mạng, thăm và tặng quà cụ nuôi dấu thuộc gia đình cơ sở tại thôn Tiên Cầu tên là cụ Hoặch vẫn còn sống, thăm lại ngôi chùa thôn Tiên Cầu , nơi cụ Hoàng Quốc Việt đóng giả sư trụ trì để che mắt địch thuộc xã Hiệp Cường, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, địa phương cụ Hoàng Quốc Việt về nằm vùng, hoạt động bí mật, gây cơ sở phong trào toàn dân đánh Pháp đuổi Nhật, ngay sau lời hiệu triệu của Hồ Chủ Tịch 19/12/1946 .
*
* *
Nhận tấm giấy thông hành của Pháp cấp có dấu đỏ ( được cấp trên lo cho ), mẹ tôi thoáng chút so sánh núi rừng Hoà Bình có giống núi rừng Yên Bái không nhỉ? nơi mẹ đã theo cha đi mua sản vật và thăm chú ruột làm soan tràng ở Yên Bái ,
Trên vai gánh đôi bồ bằng nứa, có hai lớp đáy đan rất khéo, tạo ra giữa hai khoảng đáy đó là khoảng trống, chứa các gói bí mật niêm phong ém chặt cẩn thận bằng lá chè bồm khô, chia đều cho hai bồ, bên trên có vài kg chè búp Thái Nguyên, còn toàn loại chè bồm để ngụy trang .
Mẹ tôi đóng vai cô gái bán chè dạo, bằng mọi giá chuyến hàng này phải đến Chi Lê tỉnh Hoà Bình, nơi tiếp nhận là Uỷ ban quân quản kháng chiến quân khu 3 cách xa nhà gần 40 cây số đường tắt.
Mẹ tôi hăng hái lên đường, trong niềm vinh dự, đâu phải ai cũng được giao nhiệm vụ đặc biệt này, và tuyệt nhiên không biết là giấy tờ, tài liệu hay công văn gì? để chuyển đi tới nơi cần đến.
Nhờ có tấm giấy thông hành trên tay nên qua các vọng gác của địch đều trót lọt trên địa bàn Hưng Yên, khó nhất là tìm bến đò ngang qua sông Hồng, phải đi bến đò khó đi, ít giao thương ít người đi lại hẻo lánh, từ bên Hưng Yên để vượt sang sông tới đất Hà Nam. ngày đi bộ giả đò bán chè dạo, tối tìm đường hỏi thăm dân vào nhà Chùa xin ăn và nghỉ đêm để hôm sau đi tiếp .
Sau hai ngày đêm, với gánh chè trên vai, mẹ vừa đi vừa bán dạo một cách hạn chế số chè, vì lúc đem đi có hạn , chỗ nào cần bán mới bán, đến địa phận tỉnh Hoà Bình, khu vực của ta quản lý, mẹ thở phào nhẹ nhõm vì đã qua cung đường nguy hiểm kiểm tra khám xét của địch.
Hành trình đi tiếp là đường mòn lối mở, theo sự chỉ dẫn của các đồng chí bảo vệ khu vực UBKC quân khu 3 .
Đường rừng âm u, bí hiểm và hiểm trở ,cứ độ vài km có một trạm gác, đến trạm thứ hai mẹ gặp sự cố, dù đưa giấy được phép đi trong khu vực quân quản nhưng đồng chí bảo vệ nhìn mẹ dò xét nghi ngờ, cô gái bán chè dạo đến khu vực quân quản của cách mạng với mục đích gì? tại sao lại vào khu vực cấm này ? nên cứ rứt khoát bắt quay trở lại không cho đi tiếp và cẩn thận mang theo súng áp tải mẹ tôi phải quay trở ra trạm gác trước để kiểm tra cho ra nhẽ, đường trường thêm dài ra cũng đành vậy.
Ra đến trạm gác trước, mẹ tôi bất ngờ nghe một đồng chí bảo vệ ở đây quát mắng lớn tiếng với đồng chí này và bắt xin lỗi mẹ , vì đã làm cản trở công việc của mẹ, và nói chị thông cảm cho đồng chí bắt chị quay trở lại này nhé , vì là người địa phương, lại không biết chữ nên có đọc được giấy tờ đâu, thì ra là vậy nguyên do là đây nên mẹ vui vẻ cảm thông.
Mẹ kể phải qua 3 trạm gác của ta mới tới nơi đóng quân của UBKC QK3 tít trong rừng sâu thuộc địa phận Chi Lê tỉnh Hoà Bình .
Các đồng chí lãnh đạo tiếp mẹ tôi, nhìn cô gái trẻ mệt mỏi sau quãng đường dài đi bộ gánh gồng, ái ngại cho thân gái dặm trường và cũng tiết lộ bảo rằng: thật may mắn cho chị, đi trong rừng không gặp Hổ dữ, gần đây nó mò vào bản bắt lợn của dân mấy lần rồi, nghe xong mẹ thấy lạnh sống lưng, thoáng chút rùng mình rồi trấn tĩnh lại.
Các đồng chí trong ban quân quản, lập biên bản mở niêm phong, rồi lấy dao găm cẩn thận cậy lớp đáy trên của bồ chè, các gói bọc kỹ lưỡng được mở ra.
Mọi người loá mắt lên Vàng ... vàng ...vòng vàng ...nhẫn xuyến... hoa tai... đủ các loại nữ trang. mẹ tôi rất bất ngờ về chuyến hàng đặc biệt này hoàn toàn không biết các gói hàng bí mật kia lại toàn là vàng bạc, đá quý.
Đồng chí cán bộ giải thích, thực hiện tuần lễ vàng ủng hộ kháng chiến của Hồ Chủ Tịch kêu gọi, vàng bạc đá quý đóng vào công quỹ quốc gia để mua vũ khí đạn dược chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ,
Hưởng ứng lời hiệu triệu " Tuần lễ vàng "của Bác, ngày 13/10/1945 người dân khắp các nơi từ thành phố cho đến nông thôn tự nguyện ủng hộ tiền vàng cho kháng chiến đánh Pháp đuổi Nhật, cứu nước cứu dân khỏi ách lầm than bị chúng đô hộ hàng 100 năm, gieo rắc cái chết khủng khiếp năm 1945 ất dậu khắp mọi nơi,
Ở lại nghỉ một ngày, mẹ tôi được nhận giấy chứng thực ghi theo mật mã, ban quân quản quân khu 3 đã nhận đủ số hàng trên để mẹ tôi mang về nộp UBKC huyện Kim Động cũ làm chứng đã hoàn thành nhiệm vụ.
Về đến nhà vừa tròn 5 ngày cả đi lẫn về trên đôi chân dẻo dai bộ hành, mẹ tôi vô cùng phấn khởi và cảm phục tấm lòng của người dân, tin tưởng vào cách mạng vào Đảng vào Bác Hồ, quyên góp ủng hộ cách mạng non trẻ vừa tuyên bố sau ngày độc lập 2/9/1945
Sau 10 năm, mẹ tôi bị một tên đứng lên tố cáo đúng dịp sửa sai năm 1956, mẹ bị trói bắt ra sân đình ( lúc này mẹ đang mang thai tôi đang lớn dần trong bụng mẹ ) với lời tố," đến phá nhà và đào nền nhà của mẹ để tìm vàng vì nghi ngờ mẹ tôi biển thủ vàng công quỹ dân đóng góp cho cách mạng."
Và ngay tối hôm đó, nhà mấy chị em ruột của mẹ tôi bị bọn chúng đột nhập ngồi rình nhẵn cả bậc hè đất quanh nền đất sau nhà, nhưng không thấy hiện tượng đào tẩu vàng bạc, tiền của gì hết .
Rất may mẹ tôi đã được minh oan từ UBKC của huyện Kim Động cũ, nếu không thì không lường hết được chuyện gì xẽ sảy ra giữa những ngày căng thẳng đấu tố giữa sân đình làng với mẹ kính yêu của tôi.
Nghe mẹ kể, tôi vô cùng cảm phục các mẹ các dì, trong đội du kích năm xưa (Dũng cảm -đảm đang - kiên cường -bất khuất ) trước kẻ thù xâm lược mà dấn thân vào con đường cách mạng tham gia phong trào Việt Minh, không chút do dự sợ hãi lúc tuổi đời còn rất trẻ.
Các mẹ, các dì đội du kích quê tôi 15-16 tuổi đã làm giao liên và vào đội du kích Hoàng Ngân đánh Tây diệt thù .
(Đội du kích qua 9 năm kháng chiến trường kỳ đến ngày hoà bình, tính riêng các đồng chí nữ chỉ còn 4 người trụ lại kiên cường 9 năm đó là các mẹ:
1- Nguyễn Thị Nhâm
2 -Nguyễn Thị Tỵ
3-Nguyễn Thị Thụ
4-Trần Thị Đối
Cụ Nhâm và Cụ Tỵ ( cụ Tỵ được công nhận là cán bộ Tiền khởi nghĩa trước 1/1/1945 ) là hai chị em ruột một nhà tại thôn Duyên Yên, xã Ngọc Thanh, huyện Kim Động cũ, nay sáp nhập là xã Hiệp Cường, tỉnh Hưng Yên. Cụ Nguyễn Thị Thụ sống ở quê, sau khi nhận huy hiệu 70 năm của Đảng, đã mất năm năm 2021 thọ gần 100 tuổi.
*
* *
Mẹ tôi kể: Làng Lở quê tôi năm 1948 thực dân Pháp phong tỏa lập thành làng TỀ. Năm 1948, chúng tràn vào làng càn quyét đốt phá, chúng đốt cháy hết cả hậu cung đình làng, đốt sạch, cướp sạch nhà dân, 7 cụ già yếu không chạy kịp chết cháy ngay trong ngôi nhà tranh lợp rạ của mình ( ngày giỗ trận ).
Dân làng chạy loạn sơ tán khắp nơi, một thời gian rồi lại trở về quê hương, làng Duyên Yên không bình yên.
Gia đình ông bà ngoại tôi, có bến sông Hồng làm kế mưu sinh bè giang sông nước, có nghề buôn bè từ thượng nguồn Yên Bái, vẫn kiên cường bám trụ tại quê nhà . gia đình ông bà ngoại, địa chỉ đỏ cơ sở cách mạng, nuôi dấu cán bộ Việt Minh về nằm vùng chỉ đạo kháng chiến, nuôi con lớn con bé và cháu gái nội đi theo kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đêm cuối năm 1949, tiết đại hàn gió mùa đông bắc tràn về rét buốt lạnh thấu sương đêm, sau lũy tre chắn sóng sông Hồng, có hai cha con đó là ông ngoại và mẹ tôi, thay nhau cảnh giới và đào một chiếc hầm đặc biệt tối mật, nội đêm nay phải hoàn thành, được ngụy trang tuyệt mật, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đội cảm tử Việt Dũng, do tổng bộ Việt Minh thành lập.
Chiếc hầm tối mật này chỉ đủ chứa một người, có thể ngồi và đứng được, sâu ngập đầu người. được ngụy trang khéo léo ngay dưới sạp nứa năm, (nứa đường kính gốc đạt 5cm ) vị trí căn hầm cuối bãi mặt bằng buôn bán của ông ngoại, có đủ các sạp tre, sạp nứa , sạp hóp các loại, dãy dài cối lá gồi (lá cọ) dùng để lợp nhà, các cây gỗ lớn nằm ghệch ngay bến sông theo chiều thoải từ mặt nước sông Hồng lên bãi đất rộng.
Đội Việt Dũng: đội cảm tử đặc biệt tinh nhuệ, xuất quỷ nhập thần, đến tận hang ổ sào huyệt của bọn phản động theo gót giày Pháp, bán nước hại dân, tiêu diệt tại chỗ hoặc bắt tên phản động chỉ điểm cộm cán đem về căn hầm bí mật ven bến sông nhốt lại, để bắt chúng khai ra những tên trà trộn giấu mặt trong dân chưa bị phát hiện.
Đội Việt Dũng đã tiêu diệt 4 tên chỉ điểm, chết gục ngay trên chiếu bạc tại nhà địa chủ Lý Lâm làng tôi, vụ này chấn động cả một vùng thuộc huyện Kim Động cũ, làm nức lòng người dân lương thiện.
Đêm nay căn hầm tối mật lại chứa một tên chỉ điểm phản động, đội Việt Dũng đưa về trong đêm nhốt lại.
Mẹ tôi kể: cứ để nó đói rã họng hai ngày đến ngày thứ ba, với nhiệm vụ mẹ tôi được giao, nấu cơm nắm thành một nắm thật chặt, gói vào mo cau, chút muối vừng và nước uống đóng trong bong bóng lợn, để đêm nay đội Việt Dũng trở lại đem ra cho tên chỉ điểm này ăn,
Nhịn đói hai ngày, thấy nắm cơm mắt chúng sáng lên, nhưng muốn ăn phải khai ra những tên phản động dấu mặt, không thể ngờ tới lẩn quất trong làng xã .
Tên chỉ điểm bị lôi tuột ra khỏi hầm bí mật, đội Việt Dũng dẫn ra bến sông, đêm khuya tịnh không một bóng người qua lại, khai xong đồng phạm chỉ điểm giấu mặt, chúng ăn ngấu nghiến nắm cơm cuối cùng mà chúng không hề hay biết, đêm nay chúng xẽ biến mất khỏi thế gian này với tội: phản quốc, hại dân.
Dòng sông Hồng mênh mông sóng nước, hà bá quỷ thần, nuốt chửng tên ác ôn chỉ điểm bằng sợi dây dù cột kèm đá hộc vào tên cần trừ khử,
Đáng đời quân gian ác tội "Trời không dung, đất không tha " , căn hầm tối mật trong 6 năm kháng chiến, ( 1949-1954 ) chiến công của đội cảm tử Việt Dũng, đã tiêu diệt rất nhiều tên phản động chỉ điểm, những tên cường hào ác bá, cực kỳ nguy hiểm cho cách mạng, khu vực ven tả ngạn sông Hồng.
Xóa bỏ nhiều hang ổ phản động, chỉ điểm có hại cho cách mạng, chiến công thầm lặng của đội cảm tử Viêt Dũng cực kỳ to lớn, loại trừ âm mưu hiểm độc của thực dân Pháp " Dùng người Việt đánh người Viêt " và công lao đóng góp của gia đình ông bà ngoại của tôi, không sợ nguy hiểm đến tính mạng nếu không may bị lộ căn hầm bí mật đặc biệt, giữa lòng địch tạm chiếm ( làng tề ) cho đến ngày Hưng Yên hoàn toàn giải phóng 5/8/1954.
Hôm nay tôi viết câu chuyện "nhiệm vụ tối mật ", mẹ tôi kể cho tôi nghe thủa thiếu thời, một nén tâm hương dâng lên ông bà ngoại và mẹ kính yêu của tôi, dưới thời dân tộc Việt Nam sống trong màn đêm nô lệ, dưới ách cai trị hàng trăm năm của thực dân Pháp.
Tôi viết lại qua lời kể của mẹ tôi, của các bậc cha ông tiền bối cách mạng, qua những trang quyển lịch sử Đảng xã Ngọc Thanh cũ, tôi viết kể các câu chuyện sử làng, người thật việc thật, không hư cấu câu chuyện, cho con cháu và thế hệ trẻ được biết, tự hào về những chiến công to lớn của các bậc cha ông, các anh hùng liệt sỹ thời chống Pháp, chống Mỹ, chống Tàu, để con cháu và thế hệ trẻ: tự hào sống làm việc có trách nhiệm với quê hương, đất nước.
Thế hệ trẻ ngày nay, được sống trong hòa bình, sống trong thời kỳ đổi mới, trên quê hương giàu truyền thống cách mạng, ghi nhớ biết ơn các bậc tiền bối cha ông, không quản ngại hy sinh xương máu, qua các thời kỳ kháng chiến đánh đuổi quân xâm lược và bè lũ phản quốc, bán nước, hại dân giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước để có cơ đồ hôm nay.
PTL