Tài liệu gồm 49 trang tình báo thô, bao gồm tài liệu huấn luyện chính trị, ghi chép quân sự, bài viết cá nhân và nội dung văn hóa, được phân loại là "Mật" nhưng không hạn chế phát hành. Tâm điểm của tài liệu là hồ sơ cá nhân của ông Bùi Hồng Chúc (tức Bùi Văn Chúc), một quân nhân miền Bắc sinh năm 1946 tại xóm Bùi, xã Nhân Nghĩa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.

Ông Bùi Hồng Chúc nhập ngũ vào ngày 10/4/1968, được biên chế vào Đại đội 2, Tiểu đoàn 449, Trung đoàn 253. Các mã số bưu chính quân sự của ông gồm Hòm thư 86505 YK-K9 và 15333 OG. Theo tài liệu, đơn vị của ông Chúc bắt đầu hành quân vào miền Nam ngày 11/6/1968, trùng khớp với Giai đoạn II của Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Quyển sổ tay năm 1968, ghi lại các bài hát cách mạng, ghi chú huấn luyện quân sự, thể hiện quá trình giáo dục chính trị và huấn luyện thực địa. Đặc biệt, trong sổ tay của ông Bùi Hồng Chúc có rất nhiều hình vẽ chữ và chim bồ câu, được trình bày đẹp mắt. Chứng tỏ ông có "hoa tay", rất thích hội họa và mong muốn được hưởng hạnh phúc trong hòa bình.

Tài liệu cũng bao gồm một phong bì cá nhân gửi đến Bùi Thị Thươi, cùng quê với ông Chúc. Mối liên hệ gia đình này rất quan trọng trong việc truy tìm thân nhân và có thể hỗ trợ công tác hồi hương, hoặc tưởng niệm.
Nếu Bùi Hồng Chúc hoặc các đồng đội của ông trong Đại đội 2 được liệt kê là mất tích (MIA) hoặc hy sinh (KIA), hồ sơ này có thể hỗ trợ việc khoanh vùng khu vực chôn cất, nhất là khi khu vực hành quân có thương vong nặng. Nội dung văn hóa cũng có thể chứa những đề cập gián tiếp đến đồng đội, đơn vị hoặc chiến trường giúp xác định vị trí các hài cốt chưa được tìm thấy.

Khu vực thu giữ tài liệu, nằm gần tọa độ 11.42631° N, 105.98544° E, là nơi từng xảy ra nhiều trận đánh ác liệt và có hoạt động xâm nhập của Quân Giải phóng miền Nam thời điểm 1968. Địa hình này thường được các đơn vị từ đường mòn Hồ Chí Minh qua Campuchia sử dụng để tiến vào miền Nam. Bản đồ di chuyển kèm theo, được xây dựng từ dữ liệu CDEC kết hợp với các bản đồ chiến sự lịch sử, cho thấy hành trình của ông Chúc từ Hà Tĩnh, qua Quảng Bình, Quảng Trị và vào sâu vùng chiến thuật III.
Ảnh đính kèm do tác giả cung cấp: Một số trang di bút có trong các Hồ sơ Chứng tích chiến tranh nêu trên.
Bản đồ do phía Mỹ lập, tái hiện tuyến hành quân tháng 6/1968 của Bùi Hồng Chúc từ Lạc Sơn, Hòa Bình vào miền Nam Trung Bộ, đi qua các khu vực trọng yếu như Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Tuyến hành quân này đi qua những khu vực từng là chiến trường ác liệt trong giai đoạn II của Tổng tiến công và nổi dậy 1968, bao gồm Khe Sanh, thung lũng A Sầu và các cửa ngõ Đà Nẵng. Bản đồ cung cấp bối cảnh không gian quan trọng phục vụ việc xác định vị trí thương vong, theo dõi di chuyển đơn vị, hỗ trợ nghiên cứu MIA/KIA và lập hồ sơ chiến trường.
Vượt ra ngoài giá trị tình báo, tài liệu này còn lưu giữ câu chuyện cá nhân và văn hóa của một người lính trẻ từ miền Bắc hành quân vào chiến trường miền Nam. Các bài hát và ghi chép thể hiện thế giới cảm xúc và lý tưởng của một chiến sĩ QĐNDVN, góp phần nhân bản hóa kinh nghiệm chiến tranh. Việc có đề cập đến thân nhân cụ thể làm tăng giá trị của tài liệu trong công tác hòa giải lịch sử và kết nối thế hệ hậu duệ. Đồng thời, Nếu tìm kiếm khu vực tọa độ 48PXT075633 và các mã Hòm thư đơn vị liên quan để xác định khả năng có mộ liệt sĩ và có thể quy tập hài cốt.
Hồ sơ chứng tích số F034605432333 là sự kết hợp giữa hồ sơ quân sự, lời chứng cá nhân và tư liệu tư tưởng trong một giai đoạn sôi động nhất của chiến tranh. Những thông tin chi tiết về tổ chức đơn vị, tuyến hành quân và mối quan hệ gia đình khiến hồ sơ này có giá trị cao cho cả bảo tồn di sản và điều tra nhân đạo. Hồ sơ nên được ưu tiên số hóa, liên kết với các bản đồ chiến trường và đưa vào các chương trình hòa giải xuyên biên giới liên quan đến hệ quả con người kéo dài của Chiến tranh Việt Nam. Cụ thể, thông tin về bà Bùi Thị Thươi và quê quán của Bùi Hồng Chúc có thể giúp xác định tung tích của anh (nếu còn sống) hoặc tạo điều kiện trả lại tài liệu cho gia đình. Bên cạnh đó, thông tin về khu vực địa lý nơi tài liệu được thu giữ có thể gợi ý địa điểm chôn cất của ông Chúc (nếu đã hy sinh) cũng như các đồng đội cùng đơn vị ông.
*
2- Hồ sơ mã số F034609141040 do Quân đội VNCH thu giữ vào ngày 22/5/1972, tại xã Long Cang, huyện Cần Đước, tỉnh Long An (tọa độ: 48PXS661714 / 10.59316°, 106.51824°), một khu vực nông nghiệp màu mỡ thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm ngay phía Nam Sài Gòn.
Mặc dù Long An không phải là trọng tâm của các cuộc tấn công quy mô lớn của Quân Giải phóng như ở Quảng Trị, Kontum hay An Lộc, nhưng đây lại là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng, đóng vai trò như một vùng đệm giữa các khu căn cứ của “Việt Cộng” ở miền Tây Nam Bộ và Sài Gòn. Long An có hệ thống sông rạch chằng chịt như sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, tạo điều kiện cho việc vận chuyển bí mật quân và vũ khí. Trong thời kỳ cao điểm của chiến dịch 1972, khu vực này cũng là nơi Quân Giải phóng tăng cường triển khai các cuộc tấn công nghi binh, phá hoại nhằm tạo sức ép lên phía Nam Sài Gòn. Riêng khu Long Cang chứng kiến sự gia tăng đáng kể các hoạt động đặc công và du kích, thường do các tiểu đoàn chính quy như K1, K4 và K9 thực hiện.
Hồ sơ thu giữ gồm hai phần chính: Một cuốn sổ tay viết tay dài 29 trang của Nguyễn Xuân Đề, và một tài liệu chỉ thị chiến đấu dài 3 trang, có thể do một thành viên khác của Tiểu đoàn K9 ghi chép.
Cuốn sổ tay cho biết ông Nguyễn Xuân Đề từng sinh sống tại thành phố Bắc Ninh cho đến tháng 12/1969, sau đó nhập ngũ vào Đơn vị 462 (có thể là Tiểu đoàn 462?) và được phân công về Trung đoàn 568 vào đầu năm 1970, để tham dự khóa huấn luyện Hạ sĩ quan. Sau đó, ông lần lượt phục vụ tại các Đơn vị 470, 474 (có thể là các tiểu đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam) ở thành phố Hải Dương, và tiếp theo là Đơn vị 472 tại huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc cũ.
Ngày 13/8/1971, Nguyễn Xuân Đề hoàn tất khóa huấn luyện kéo dài 4 tháng do Trung đoàn 95 (có thể thuộc Sư đoàn 325) tổ chức. Sau đó, ông được phân công về Tiểu đoàn 3 mới thành lập, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325. (Còn gọi là Đoàn 2012B trong quá trình hành quân vào miền Nam). Ông cùng đơn vị bắt đầu cuộc hành quân đi B vào ngày 15/12/1971. Họ đã di chuyển theo Đường 559, có thể là tuyến đường xâm nhập do Đoàn 559 phụ trách, qua các tỉnh Khăm Muộn (Khammouane), Phạt Chiết (Savannakhet), khu vực Tà Lê, sông Sê Băng Hiêng, và tỉnh Tchépone (Lào).
Ngày 28/2/1972, Nguyễn Xuân Đề cùng đơn vị kết thúc hành trình trên Đường 559. Đến ngày 28/3/1972, họ đóng quân tại một làng không xác định ở Cộng hòa Khmer, và đến ngày 28/4/1972 thì có mặt tại Phân khu Long An để thực hiện nhiệm vụ chiến đấu.
Tài liệu 3 trang còn lại trình bày kế hoạch tấn công phối hợp giữa các Tiểu đoàn K1, K4 và K9 thuộc Ban Chỉ huy Phân khu Long An, dự kiến diễn ra vào ngày 17/11/1972. Các mục tiêu bao gồm kênh Vàm Ông Bình, An Thuận, Đông Sơn, Long Cang, và Long Định. Chỉ thị ghi rõ các đòn tấn công đường thủy, bao vây, phá hoại cầu cống và lập công sự nghi binh. Đặc biệt, tài liệu còn cung cấp các bí danh (ví dụ: K1 = A5, K9 = A10), và đề cập đến một cá nhân tên “7 Chiến” được giao nhiệm vụ kiểm tra đội hình chiến đấu - một chi tiết có thể dẫn đến thông tin về các cá nhân liên quan khác.
Nguyễn Xuân Đề là nhân vật chính được nêu tên. Mặc dù không rõ cấp bậc và tuổi, vai trò là cán bộ cho thấy ông giữ trách nhiệm lãnh đạo, có thể phụ trách công tác chính trị. Việc trải qua nhiều đơn vị và hoàn tất huấn luyện chính trị và quân sự, cho thấy ông là một cán bộ giàu kinh nghiệm, có lý tưởng. Việc ông Đề được điều động đến Tiểu đoàn K9 thuộc Phân khu Long An - một đơn vị vừa được tăng cường quân từ miền Bắc, cho thấy sự phối hợp giữa lực lượng chủ lực miền Bắc và lực lượng tại chỗ trong chiến trường miền Nam. Một người khác tên là “7 Chiến” có thể là cán bộ cấp chỉ huy tại Phân khu Long An. Nếu có thể truy dấu qua các tài liệu khác, nhân vật này có thể cung cấp thêm đầu mối về tổ chức chỉ huy hoặc nhân sự đơn vị.
Việc thu giữ tài liệu tại xã Long Cang, huyện Cần Đước (tọa độ 10.59316°, 106.51824°) cung cấp dữ kiện quý giá cho các chương trình tìm kiếm người mất tích. Sổ tay của ông Nguyễn Xuân Đề chứa đầy đủ chi tiết về đơn vị, hành trình, và lý lịch huấn luyện, có thể dùng để đối chiếu với hồ sơ liệt sĩ hoặc báo cáo người mất tích do thân nhân cung cấp. Thông tin về kế hoạch tấn công ngày 17/11/1972 còn chỉ rõ vị trí có khả năng xảy ra tổn thất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai quật hoặc xác định danh tính di cốt. Sự tham gia của cán bộ chiến sĩ miền Bắc vào các đơn vị miền Nam càng làm tăng khả năng rằng hài cốt chưa xác định tại khu vực này, có thể thuộc về các cá nhân như ông Đề. Thông tin cá nhân của ông cũng có thể được đối chiếu với các hồ sơ gia đình liệt sĩ, cựu chiến binh ở Bắc Ninh.
Bổ sung thêm: Theo thông tin của CCB Cao Việt Đức thì Liệt sỹ Nguyễn Xuân Đề thuộc Sư đoàn 5. Đã hi sinh và an táng tại Gò Đất Cúng, xã Long Sơn, huyện Cần Đước, tỉnh Long Anh. Quê quán của Liệt sĩ là xã Dĩnh Kế, huyện Lạng Giang. Nay là phường Dĩnh Kế, TP. Bắc Giang. Thân nhân của Liệt sĩ có anh trai là Nguyễn Văn Thắng (chưa rõ địa chỉ và số điện thoại?).
*
3- Hồ sơ mã số F034606542323 do quân đội Mỹ thu giữ ngày 28/6/1969 tại tỉnh Bình Dương. Tọa độ nơi thu giữ là 48PYT067485 (11.28806°N, 106.89364°E) - nằm trong địa phận xã Tam Lập, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương ngày nay, một khu vực nằm dọc hành lang Quốc lộ 13 và giáp với vùng "Tam Giác Sắt" nổi tiếng trong chiến tranh. Việc thu giữ xảy ra sau một cuộc đụng độ trực diện, các tài liệu được tìm thấy trên thi thể, cho thấy đây là một trận đánh đẫm máu và chủ nhân của tài liệu có thể đã hi sinh.
Tài liệu thu giữ gồm 35 trang viết tay, nhiều hình ảnh có lỗ thủng ở giữa vì vết đạn, thuộc về người có tên là Bùi Văn Bảo, cán bộ Tham mưu của một đơn vị, được cho là Tiểu đoàn Đặc công 3, Quân giải phóng miền Nam:
- Một phong bì từ Bùi Văn Biểu gửi Bùi Văn Bảo, địa chỉ tại thôn Yên, xã Hoàng, huyện Kim, tỉnh Nam Hà cũ. (Địa chỉ tên làng xã, có thể đã bị mất chữ, hoặc viết tắt để bảo mật?)
- Một bức thư đề ngày 5/5 (năm không rõ) do ông Bảo viết cha mẹ tại miền Bắc mà chưa kịp gửi đi.
- Sổ tay ghi danh sách nhân sự và trang bị của Tiểu đoàn Đặc công 3.
Tài liệu có giá trị lớn về mặt tình báo và di sản, cung cấp cái nhìn rõ ràng về cấu trúc đơn vị, hệ thống chỉ huy và khả năng sẵn sàng chiến đấu. Mã hòm thư 86200YK B16 X3 xuất hiện nhiều lần, cho thấy đây là định danh địa bàn hoạt động có thể đối chiếu với các tài liệu khác.
Theo tài liệu cho biết một số họ tên cán bộ của Tiểu đoàn Đặc công 3 bao gồm:
Ban Chỉ huy Tiểu đoàn:
- Phạm Thiết Kế (Tiểu đoàn trưởng)
- Nguyễn Thanh Lan (Cán bộ tham mưu)
- Bùi Văn Bảo (Trợ lý Tham mưu trưởng)
- Loan và Thắng (Trợ lý hành chính)
Đại đội C7:
- Lê Khắc Minh (Chỉ huy)
- Nguyễn Hữu Thọ (Chính trị viên)
- Nguyễn Xuân Nam/Năm (Trợ lý Chính trị).
Đại đội C8:
- Nguyễn Xuân Bản (Chỉ huy)
- Nguyễn Văn Bào (Trợ lý)
- Dương Văn Lợi (Chính trị viên)
- Đỗ Thành Lưu (Trợ lý Chính trị).
Đại đội C9:
- Ngô Văn Thời (Chỉ huy)
- Hoàng Trọng Lương, Nguyễn Văn Đê (Trợ lý)
- Tô Ngọc Hân, Nguyễn Quốc Kế (Trợ lý Chính trị)
Vũ khí trang bị của đơn vị: 116 súng AK, 17.540 viên đạn; 7 B40, với 52 quả đạn; 2 B41 và 12 quả đạn; 6 súng ngắn K54; 2 súng CKC…
Cấu trúc tổ chức và hỏa lực cho thấy đây là đơn vị đặc công tinh nhuệ, được huấn luyện và trang bị cho các nhiệm vụ đánh phá, phục kích hoặc cận chiến trong đô thị hoặc khu vực chiến lược quan trọng.
Việc tài liệu được tìm thấy trên thi thể gợi ý rằng một số nhân sự trong danh sách, bao gồm cả Bùi Văn Bảo, có thể đã hy sinh. Điều này biến danh sách nhân sự trở thành một nguồn quý giá để nhận diện MIA/KIA. Với tên tuổi, chức vụ, và mã hòm, có thể đối chiếu với cơ sở dữ liệu, để tìm kiếm quân nhân mất tích và quy tập hài cốt liệt sĩ.
Hà Nội, 25/6/2025
TTNL