Công bố báo cáo để đầu tư công thúc đẩy tăng trưởng của Ngân hàng Thế giới

14/08/2023 13:32

Báo cáo cập nhật Điểm lại kinh tế Việt Nam, với tiêu đề “Để đầu tư công thúc đẩy tăng trưởng” đã được Ngân hàng Thế giới (W.B) công bố vào sáng Thứ Năm, ngày 10 tháng 8 năm 2023 tại Hà Nội. Mức tăng trưởng dự kiến của Việt Nam ra sao? Những tác động của khủng hoảng kinh tế và chính trị toàn cầu đối với nền kinh tế là vấn đề đã được gợi ra trong ấn bản Điểm lại này.

cong-bo-1691994690.jpg

Container trên  tàu chở hàng tại cảng Sài Gòn (Ảnh- Hau Dinh)

Báo cáo điểm lại đã xem xét những diễn biến gần đây của nền kinh tế và thảo luận về triển vọng ngắn và trung hạn, nêu bật rủi ro trong nước và ở bên ngoài liên quan đến triển vọng tăng trưởng của Việt Nam. Phần chuyên đề đã nghiên cứu kỹ xu hướng suy giảm đầu tư công và tìm cách nâng cao hiệu quả đầu tư, đây là nhân tố tác động mạnh đến tăng năng suất tổng hợp và GDP.

Trong báo cáo về tình hình kinh tế, Ngân Hàng Thế giới ghi nhận, GDP của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm nay đã tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước và triển vọng tăng trưởng cả năm được dự báo ở mức 4,7%, giảm so với thành tích vượt trội của năm 2022 đạt 8%. Tăng trưởng chậm lại được cho là do môi trường bên ngoài khó khăn và  nhu cầu trong nước suy yếu.

Phát biểu  trong lễ công bố báo cáo tại Hà Nội, Giám đốc Quốc gia Ngân Hàng Thế Giới tại Việt Nam, Carolyn Turk, nhấn mạnh, tăng trưởng kinh tế Việt Nam suy giảm là do các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài. GDP toàn cầu dự báo cả năm 2023 chỉ tăng 2,1% thấp hơn 3,1% của năm 2022 cùng với tăng trưởng thương mại giảm mạnh, từ 6% xuống còn 1,7%. Trong 6 tháng đầu năm, kinh tế Việt Nam bị chững lại, GDP chỉ tăng 3,7% so với cùng thời kỳ năm trước. Tuy nhiên, Ngân Hàng Thế Giới vẫn lạc quan dự báo mức tăng trưởng khá của nền kinh tế trong nửa cuối năm 2023.

cong-bo-1-1691994736.jpg

 

Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Carolyn Turk phát biểu (ảnh  H.L)

Để thúc đẩy tăng trưởng, Ngân Hàng Thế Giới khuyến nghị Chính phủ Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư công một cách hiệu quả, đặc biệt dối với hệ thống phân phối điện lực, vì thiếu điện là một trong những nguyên nhân tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. 

Nhìn chung, định chế tài chính đa quốc gia W.B tin tưởng vào tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam..Theo đó, năm 2024 và 2025 sẽ tăng nhanh trở lại với dự báo lần lượt, ở mức 5,5% và 6%. Báo cáo điểm lại cho rằng, nhu cầu trong nước vẫn là động lực tăng trưởng chính trong năm 2023. Tiêu dùng tư nhân tuy giảm so với mức tăng trước đại dịch, song vẫn giữ vững với tốc độ tăng 6% so cùng kỳ năm 2022. Về tổng thể, đầu tư sẽ đóng góp 1,8% cho tăng trưởng GDP. Đầu tư tư nhân dự kiến giảm nhẹ, so với tốc độ tăng 4,3% của cùng kỳ năm 2022 và mức tăng 8,2% của năm 2019. Những bất định từ môi trường bên ngoài, đóng góp tới 1,2% cho tăng trưởng GDP, nhưng đầu tư công sẽ được đẩy mạnh, tăng 9,5% so cùng kỳ năm 2022, và  đóng góp 0,6% vào tăng trưởng;

Do thanh khoản được nới lỏng và Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ban hành hướng dẫn về tái cơ cấu trả nợ; và những hạn chế về nguồn tài chính dành cho lĩnh vực bất động sản, xây dựng được khắc phục sẽ hỗ trợ cho đầu tư tư nhân từng bước phục hồi trong năm 2024.

Chỉ số CPI tăng nhẹ từ mức bình quân 3,1% của năm 2022 lên 3,5% trong năm 2023. Tác động giảm phát khi tăng trưởng chững lại và chính sách giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng từ 10% giảm xuống 8% trong nửa cuối năm 2023 được cho là đủ đề bù lại cho tiền lương sẽ tăng 20,8%. Theo đó, lạm phát CPI được bình ổn ở mức 3% trong năm 2024 và 2025, trên cơ sở giá năng lượng và thương phẩm ổn định trong năm 2024.

Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Carolyn Turk, cho rằng, nền kinh tế Việt Nam đang gặp thách thức từ các yếu tố bên trong và bên ngoài. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Chính phủ có thể hỗ trợ tổng cầu thông qua đầu tư công hiệu quả, qua đó tạo việc làm và kích thích hoạt động kinh tế. Ngoài các biện pháp hỗ trợ ngắn hạn, Chính phủ không nên từ bỏ những cải cách thể chế, cơ cấu trong lĩnh vực năng lượng và ngân hàng, vì đây là điều cần thiết đối với tăng trưởng dài hạn.

Báo cáo đã đề xuất một số lựa chọn chính sách để đưa nền kinh tế trở lại đúng quỹ đạo. Thực hiện hiệu quả ngân sách đầu tư công năm 2023, nhằm kích thích tổng cầu và tăng trưởng kinh tế. Đồng thời với đề xuất đa dạng hóa sản phẩm và điểm đến xuất khẩu để xây dựng khả năng phục hồi trung hạn trước các cú sốc bên ngoài. Chính sách tài khóa có thể đóng vai trò mạnh mẽ hơn trong khuyến khích thực hành và tiêu dùng xanh, góp phần xây dựng môi trường bền vững.

Đánh giá về triển vọng trong thời gian tới, báo cáo ghi nhận, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những rủi ro gia tăng ở trong nước và từ phía bên ngoài. Tăng trưởng thấp hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển và nhu cầu từ thị trường Trung Quốc có thể tiếp tục giảm đối với khu vực xuất khẩu của Việt Nam, với quy mô ước bằng khoảng 50% tăng trưởng GDP.

Những bất định kéo dài trên thị trường tài chính toàn cầu có khả năng làm dấy lên căng thẳng trong khu vực ngân hàng, khiến  các nhà đầu tư né tránh rủi ro và không chú ý đầu tư, bao gồm cả đầu tư vốn FDI. Chính sách tiền tệ thắt chặt mạnh mẽ hơn ở các nền kinh tế phát triển quy mô lớn, nhằm chống lạm phát kéo dài có thể nới rộng chênh lệch lãi suất giữa thị trường trong nước và quốc tế. Điều này có thể gây áp lực về tỷ giá đối với đồng nội tệ.

Thiên tai liên quan đến khí hậu có thể làm tăng rủi ro theo hướng không khả quan cho Việt Nam, bao gồm giá lương thực thực phẩm và nhiên liệu tăng cao. Nhìn từ trong nước, khu vực tài chính đang phải đối mặt với những rủi ro và nguy cơ bị tổn thương ngày càng lớn, đòi hỏi phải theo dõi chặt chẽ và tiến hành đổi mới mạnh mẽ hơn.

Báo cáo điểm lại cho biết, để đạt được mục tiêu thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045, Chính phủ cần đầu tư bình quân 7,3% GDP mỗi năm cho hạ tầng trong giai đoạn 2021-2030. Mặc dù nhu cầu ngày càng lớn, nhưng đầu tư công của Việt Nam đang theo xu hướng giảm dần, từ 8% GDP trong năm 2011 xuống còn 6% trong năm 2022. Việt Nam cần nhiều nỗ lực để đảo ngược xu hướng này, nhưng việc nâng cao hiệu suất đầu tư là vấn đề quan trọng để đem lại tác động lớn đối với tăng trưởng năng suất tổng thể và GDP.

Tỷ trọng đầu tư ngân sách có xu thế giảm, kèm theo là những bất cập kéo dài về hiệu quả, hiệu suất phân bổ, triển khai và vận hành. Trong giai đoạn từ 2011 đến 2019, trung bình nền kinh tế phải bỏ ra hơn 6 đồng đầu tư mới tạo ra được thêm 1 đồng sản lượng. Vì vậy, đầu tư của Việt Nam tạo ra tăng trưởng thấp hơn so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ma-lay-xia, Hàn Quốc, Sing-ga-po và Thái Lai ở thời điểm họ có cùng mức thu nhập bình quân đầu người và cùng trình độ phát triển.

Chất lượng hạ tầng của Việt Nam đứng thứ 77/141 quốc gia trên toàn thế giới, thấp thua so với các quốc gia trong khu vực như, Inđô-nê-xia, Ma-lai-xia, và Thái Lan, Đây là những nước đang cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Mặc dù vậy, ngân sách đầu tư thực hiện thấp hơn dự toán, chỉ giải ngân được trung bình 77% dự toán trong giai đoạn 2017-2022. Chênh lệch lớn giữa số dự toán và số thực giải ngân lên tới 23% kèm theo đó là tình trạng chi đầu tư chuyển nguồn ở mức cao, cao hơn hẳn so với nhiều quốc gia trong khu vực và còn cách xa so với thông lệ quốc tế tốt là dưới 5%.

Kể từ những năm 1990, Chính phủ Việt Nam đã phân cấp chi tiêu. Tỷ lệ đầu tư của ngân sách Trung ương so với tổng đầu tư công giảm từ 40% vào năm 2017 xuống còn 20% vào năm 2022. Chính sách phân cấp giúp dịch chuyển 80% vốn đầu tư công cho các địa phương trong giai đoạn 2017-2022, là tỷ lệ cao hơn gấp đôi so với mức bình quân ở các quốc gia có hệ thống ngân sách được quản lý tập trung thống nhất và các quốc gia nói chung thẩm quyền quyết định chi tiêu được phân cấp cho chính quyền địa phương, tuy đem lại nhiều kết quả tích cực, nhất là cung cấp dịch vụ công, nhưng cũng dẫn đến những điểm yếu trong phối hợp giữa trung ương và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc. Các địa phương đã đầu tư vào nhiều dự án giá trị thấp, phân tán, hình thành tài sản lãng phí, có thể gây tác động tiêu cực về môi trường. Hệ quả là, hiệu suất bị suy giảm do các nguyên nhân như trùng lặp, khó khăn trong triển khai thực hiện, phát sinh tác động ngoại ứng tiêu cực, huy động sự tham gia và nguồn tài chính của khu vực tư nhân chưa tối ưu.

Báo cáo cũng cho biết, Tổng nhu cầu tài chính phát sinh thêm để Việt Nam thực hiện lộ trình giảm thải các bon và nâng cao khả năng chống chịu có thể lên tới 6,8% GDP mỗi năm. Đầu tư và tài sản công tại Việt Nam có nguy cơ đối diện với rủi ro khí hậu gia tăng; bao gồm cả nguy cơ đối với cơ sở vật chất do các hiện tượng thời tiết cực đoan và biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra, cũng như rủi ro chuyển đổi khi quốc gia đã cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Để phát huy sức mạnh của đầu tư công, Báo cáo khuyến nghị Việt Nam cần duy trì bền vững mức đầu tư, hợp lý hóa cơ cấu đầu tư, và xử lý những bất cập về thể chế trong cả quan hệ tài khóa giữa các cấp chính quyền. Chính phủ cần cân nhắc những biện pháp trong ngắn hạn và trung hạn. Theo đó, cần cải thiện chất lượng đầu vào của các dự án bằng cách bố trí thêm thời gian và ngân sách cho khâu chuẩn bị, đồng thời đưa ra những hướng dẫn về phương pháp để xây dựng báo cáo nghiên cứu tiền khả thi cho các dự án. 

Cần định kỳ cập nhật định mức, đơn giá đầu tư và giá đất cho sát với thị trường để đảm bảo dự toán được lập sát thực tế. Nhằm nâng cao tác động của đầu tư công để cải thiện khả năng thích ứng, chống chịu BĐKH, Chính phủ cũng cần quy định về đánh giá tác động của BĐKH ngay từ khâu đầu khi chuẩn bị dự án và đánh giá các biện pháp thích ứng trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi của các dự án có rủi ro khí hậu lớn. Điều quan trọng không kém là cần đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Giải pháp mang tính thực tiễn là bóc tách giải phóng mặt bằng/tái định cư ra khỏi dự án đầu tư, nhất là với các dự án lớn. Các bộ ngành trung ương và các tỉnh cần xây dựng cơ chế có hệ thống và được số hóa để xác định các dự án có rủi ro cao về chậm trễ, không hoàn thành và hợp lý hóa các quy trình, thủ tục điều chỉnh hoặc chấm dứt dự án. Phạm vi và chiều sâu đánh giá hậu kiểm của dự án cần được tăng cường, ít nhất đối với các dự án lớn và quy mô trung bình. Quản lý tài sản công cũng cần được tăng cường để tối đa hóa tác động của dự án sau khi hoàn thành. Cần sớm triển khai các bước nền tảng bao gồm thiết lập cơ sở dữ liệu về toàn bộ giá trị và hiện trạng của tài sản hạ tầng, sử dụng các ứng dụng công nghệ và phân tích dữ liệu để phục vụ quyết định phân bổ ngân sách cho vận hành và bảo trì . Bên cạnh đầu tư mới, từng bước thực hiện cải cách  hạch toán/ về tài sản hạ tầng.

Cân đối lại cơ cấu ngân sách đầu tư công theo hướng dịch chuyển một phần từ cấp địa phương sang cấp trung ương. Nên tăng cường lập ngân sách theo chiến lược và theo chương trình, thay vì theo danh mục dự án đơn lẻ, thông qua việc cải thiện cấu trúc phân loại, tổ chức, trình bày ngân sách và triển khai tốt hơn phương thức nhằm đẩy mạnh thực hiện định hướng chính sách bao gồm cả phát triển vùng, chuyển đổi xanh, và chống chịu, thích ứng với BĐKH. Trong bối cảnh Luật Ngân sách Nhà nước dự kiến sẽ được sửa đổi, cơ chế phân cấp tài khóa cần được hiện đại hóa, bao gồm phân cấp, phân chia nguồn thu, nguyên tắc bổ sung cân đối ngân sách sao cho cân bằng tốt hơn giữa nhu cầu của trung ương và các địa phương, đồng thời khuyến khích hành động chuyển đổi xanh và thích ứng BĐKH trong quan hệ ngân sách giữa các cấp chính quyền. Các hạn chế về cơ chế, thể chế đối với các dự án có tính liên tỉnh, liên vùng, hoặc có tính chất cần được tháo gỡ. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, đó là cơ chế chia sẻ và hợp vốn mới cần được thể chế dựa trên công thức được xác định minh bạch, khoa học, trong đó chú ý lồng ghép những cân nhắc về huy động tài chính cả trong và ngoài nước.

TS. Lê Thành Ý