TÓM TẮT
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc ứng dụng khoa học công nghệ vào các làng hoa, cây cảnh truyền thống tại Hà Nội đã góp phần nâng cao năng suất sản xuất, chất lượng sản phẩm và giá trị du lịch. Cụ thể, thành phố đã hình thành 47 vùng sản xuất tập trung với tổng diện tích trên 1.800 ha, trong đó khoảng 30% diện tích đã áp dụng công nghệ cao như nhà kính, nhà lưới, hệ thống tưới tự động, công nghệ nuôi cấy mô và bảo quản sau thu hoạch, giúp năng suất tăng từ 1,3 đến 1,5 lần. Đồng thời, việc tích hợp các giải pháp công nghệ số như website, ứng dụng di động, thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) vào quảng bá và quản lý du lịch đã giúp tăng thu nhập từ hoạt động du lịch tại một số làng nghề như Hồng Vân, Phù Đổng từ 1,2 đến 1,4 lần. Tuy nhiên, mức độ ứng dụng còn chưa đồng đều do tồn tại nhiều rào cản, bao gồm chi phí đầu tư cao (10 - 15 tỷ đồng/ha nhà kính), hạ tầng kỹ thuật chưa hoàn thiện, thiếu nguồn nhân lực được đào tạo bài bản và chính sách hỗ trợ chưa phù hợp với các nhóm hộ sản xuất nhỏ. Dựa trên phân tích nhu cầu và tiềm năng từ các bên liên quan, nghiên cứu đề xuất các giải pháp đồng bộ gồm đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ, hỗ trợ tín dụng, đào tạo kỹ năng công nghệ số và xây dựng nền tảng du lịch thông minh, nhằm hướng tới phát triển mô hình làng hoa - cây cảnh kết hợp du lịch theo hướng hiện đại và bền vững tại Hà Nội.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo quyết định số 147/TTg-CP ngày 22/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 đã đề cập phát triển sản phẩm du lịch chú trọng phát huy giá trị các di sản văn hóa, lịch sử, truyền thống của từng địa phương tạo ra nét độc đáo thu hút du khách. Đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp và nông thôn, du lịch sinh thái (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, 2020).
Hà Nội, với bề dày lịch sử và nền văn hóa đặc sắc, làng nghề góp phần quan trọng vào thu hút khách du lịch đến với Thủ đô. Theo số liệu của sở Du lịch thành phố, tính đến tháng 8 - 2024 ngành du lịch đã đón 18,95 triệu lượt khách, tăng 12,3% so với cùng kỳ đầu năm 2023 (Phạm Ngọc Sơn, 2024).
Diện tích sản xuất hoa, cây cảnh của Hà Nội tăng mạnh từ 5.484 ha năm 2015 lên 7.960 ha năm 2020 tập trung chủ yếu ở các vùng như: Nhật Tân, Tây Tựu, Mê Linh, Quảng Bá và Tích Giang, Đan Phượng, Thường Tín.... Những làng nghề này không chỉ giữ vai trò quan trọng trong sản xuất hoa, cây cảnh phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu mà còn góp phần quảng bá giá trị văn hóa truyền thống và phát triển du lịch sinh thái, du lịch làng nghề (Hồng Nhung, 2021). Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, biến đổi khí hậu và áp lực đô thị hóa, các làng hoa, cây cảnh tại Hà Nội hiện nay đang gặp phải nhiều thách thức do sản xuất chủ yếu dựa vào các phương pháp truyền thống, dẫn đến năng suất và chất lượng sản phẩm còn hạn chế.
Đồng thời, việc phát triển du lịch gắn với làng hoa vẫn đang ở giai đoạn sơ khai với cơ sở hạ tầng, hệ thống quản lý và quảng bá chưa đồng bộ. Chính vì vậy, việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất và quản lý du lịch không chỉ giúp tăng cường năng suất, chất lượng sản phẩm mà còn tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa và thúc đẩy kinh tế địa phương. Do đó, đề xuất các giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ nhằm phát triển bền vững mô hình làng hoa, cây cảnh gắn với du lịch tại Hà Nội, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hoa, cây cảnh, đồng thời tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các làng hoa, cây cảnh truyền thống tiêu biểu tại Hà Nội: Tây Tựu, Nhật Tân, Mê Linh, Quảng Bá và Tích Giang.
- Phạm vi nghiên cứu: Số liệu và bối cảnh trong 5 năm gần đây
2.2. Phương phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp tổng hợp tài liệu, khảo sát hiện trạng và phỏng vấn các bên liên quan bao gồm người dân làng nghề, doanh nghiệp sản xuất, hợp tác xã, cơ quan quản lý và các chuyên gia công nghệ. Qua đó, đánh giá mức độ ứng dụng công nghệ hiện tại và phân tích những hạn chế, thách thức trong quá trình áp dụng.
2.2.2. Phương pháp phân tích và đánh giá
Các số liệu thu được được phân tích định tính và định lượng nhằm:
- Đánh giá mức độ đầu tư và ứng dụng các công nghệ nông nghiệp hiện đại (nhà kính, hệ thống tưới tự động, giống cây trồng mới…).
- Phân tích nhu cầu và tiềm năng ứng dụng công nghệ số trong quảng bá và phát triển du lịch (website, ứng dụng di động, VR/AR…).
- So sánh hiệu quả sản xuất và kinh tế giữa các hộ sản xuất đã ứng dụng công nghệ với các hộ sử dụng phương pháp truyền thống.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đánh giá hiện trạng ứng dụng khoa học công nghệ tại các làng hoa, cây cảnh
3.1.1. Mức độ áp dụng công nghệ trong sản xuất
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội, năm 2021 toàn thành phố có 8.000 ha hoa, cây cảnh, khoảng 70% diện tích được trồng tập trung ở các quận, huyện: Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Mê Linh, Đan Phượng, Phúc Thọ, Thường Tín, Gia Lâm..., đã hình thành được 47 vùng sản xuất hoa, cây cảnh tập trung với tổng diện tích hơn 1.800 ha và quy mô bình quân từ 10 - 20ha/vùng. Trong đó, diện tích trồng hoa chất lượng cao chiếm hơn 30% và đang tiếp tục được mở rộng. Giá trị từ hoa, cây cảnh những năm gần đây đạt hơn 7.000 tỷ đồng. (Hồng Nhung, 2021).
Bên cạnh đó, Hà Nội là một trong những địa phương dẫn dầu cả nước về các mô hình trồng hoa, cây cảnh ứng dụng công nghệ cao. Với 61 cơ sở ứng dụng công nghệ cao hoặc sản phẩm công nghệ cao trong quá trình sản xuất hoa, với tổng diện tích 122,5 ha, khoảng 77,3 ha trồng hoa trong nhà màng, nhà lưới (Ngọc Ánh, 2024). Điển hình như: Mô hình ươm trồng lan hồ điệp của Công ty Toàn Cầu có quy mô lớn nhất Việt Nam; mô hình trồng hoa lan công nghệ cao của HTX Đan Hoài - Flora Việt Nam (Đan Phượng, Hà Nội) được coi là một hình mẫu của mô hình nông nghiệp đô thị hiện đại sau 15 năm phát triển.
Ngoài ra, Hà Nội có 11 trang trại điển hình về phát triển nông nghiệp gắn với du lịch sinh thái đó là Làng du lịch sinh vật cảnh xã Hồng Vân được UBND TP Hà Nội công nhận là sản phẩm OCOP 4 sao năm 2023, hay tại xã Phù Đổng (huyện Gia Lâm) với việc được công nhận là Điểm du lịch và Làng nghề hoa giấy, còn có các vùng hoa chuyên canh nổi tiếng như: Thanh Trì, Thường Tín, Phúc Thọ, Ba Vì, Chương Mỹ, quận Long Biên và Hà Đông… (Đặng Hương Giang, 2025).
Việc sản xuất hoa, cây cảnh theo hướng tập trung, ứng dụng công nghệ cao cũng là xu hướng hiện nay, các công nghệ được ứng dụng tại Hà Nội như: Nhà kính, nhà lưới thông minh; Hệ thống tưới tự động; Công nghệ lai tạo và nuôi cấy mô; Công nghệ bảo quản và chế biến sản phẩm…
Cũng theo đánh giá của Sở NN&PTNT Hà Nội, mặc dù trên địa bàn thành phố đã hình thành một số mô hình ứng dụng công nghệ cao trong trồng hoa nhưng công nghệ mới chỉ chủ yếu là nhà màng, nhà lưới, chưa nhiều nhà kính kết hợp tưới nước tiết kiệm, điều khiển nhiệt độ, độ ẩm... Đa số mô hình có quy mô nhỏ, manh mún, thiếu liên kết, chưa tạo ra những vùng hoa thương hiệu. Số làng nghề hoa, cây cảnh được công nhận là điểm du lịch còn khiêm tốn.
Bảng 1: Thực trạng ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển làng hoa gắn với du lịch tại Hà Nội

Như vậy, thực trạng ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển làng hoa gắn với du lịch tại Hà Nội đã ghi nhận những chuyển biến tích cực ban đầu. Việc triển khai số hóa thông tin, xây dựng ứng dụng du lịch thông minh (như tại Hồng Vân, Tây Hồ) đã giúp nâng cao trải nghiệm du khách, góp phần làm tăng lượng khách tham quan từ 1,2 đến 1,5 lần so với trước đây. Hoạt động quảng bá sản phẩm thông qua mạng xã hội và sàn thương mại điện tử (như tại xã Mê Linh) đã giúp doanh thu tăng trung bình 1,3 lần, đồng thời mở rộng độ phủ thị trường trên toàn quốc. Các mô hình du lịch trải nghiệm kết hợp sản xuất hoa (tại Mê Linh, Hồng Vân, Phù Đổng...) cũng góp phần nâng thu nhập cho người dân lên từ 1,2 đến 1,4 lần, đồng thời bảo tồn được các giá trị văn hóa truyền thống. Ngoài ra, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và bảo quản như nhà màng, hệ thống tưới tự động, kho lạnh, logistics... đã giúp tăng năng suất từ 1,3 đến 1,5 lần và giảm hao hụt sau thu hoạch tới 30 - 40%. Tuy nhiên, mức độ ứng dụng giữa các làng nghề vẫn còn chưa đồng đều, thể hiện nhu cầu cấp thiết trong việc tiếp tục đầu tư hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực số cho cộng đồng và tăng cường liên kết giữa người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhằm hướng đến sự phát triển bền vững của mô hình làng hoa - du lịch tại Hà Nội.
3.1.2. Hạn chế trong ứng dụng khoa học công nghệ
Các kết quả điều tra, khảo sát về các hạn chế trong ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển làng hoa gắn với du lịch ở Hà Nội, thu được trình bày ở bảng 2:
Bảng 2. Các nhóm hạn chế trong ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển làng hoa gắn với du lịch tại Hà Nội

Như vậy, mặc dù đã có những bước tiến trong ứng dụng công nghệ vào sản xuất hoa, cây cảnh tại Hà Nội, nhưng mức độ áp dụng vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng làng nghề. Nguyên nhân chủ yếu do chi phí đầu tư cao, thiếu quy hoạch đồng bộ, nguồn nhân lực yếu, hạ tầng kỹ thuật chưa đảm bảo và chính sách hỗ trợ chưa bao phủ nhóm hộ nhỏ và hợp tác xã. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, người dân và doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực tiếp cận công nghệ, đặc biệt ở quy mô nhỏ và vừa, hướng tới phát triển làng hoa - du lịch một cách hiệu quả và bền vững.
3.2. Nhu cầu và tiềm năng ứng dụng công nghệ trong phát triển mô hình làng hoa gắn với du lịch tại Hà Nội
3.2.1. Nhu cầu của các bên liên quan
Việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất hoa, cây cảnh gắn với du lịch tại Hà Nội không chỉ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm mà còn tạo nền tảng phát triển mô hình du lịch sinh thái gắn với làng nghề một cách bền vững, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề. Theo quyết định số 4081/QĐ-BNN-TT ngày 26 tháng 10 năm 2022 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc phê duyệt đề án phát triển ngành hoa, cây cảnh đến năm 2030 thì Hà Nội là một trong những địa phương trọng điểm sản xuất hoa, cây cảnh và hình thành các vùng chuyên canh, các làng nghề gắn với phát triển du lịch nông thôn và phấn đấu đến năm 2030 diện tích trồng hoa có ứng dụng công nghệ cao chiếm 15 - 20%; diện tích trồng hoa có mái che đạt 20 - 25% (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2022)
Bảng 3. Nhu cầu ứng dụng công nghệ trong phát triển làng hoa gắn với du lịch tại Hà Nội

Phần lớn hộ sản xuất có diện tích nhỏ (<0,5 ha), cần ứng dụng nhà kính, tưới tự động, đèn LED để tăng năng suất. Việc sử dụng bảo quản lạnh giúp giảm hao hụt 30 - 40%. Khoảng 70% chưa được đào tạo kỹ thuật, trong khi 65% sẵn sàng tham gia thương mại điện tử nếu được hỗ trợ. Nhu cầu vay vốn đầu tư công nghệ rất lớn.
Doanh nghiệp cần mở rộng quy mô bằng công nghệ IoT, blockchain giúp minh bạch chuỗi cung ứng, nâng giá trị sản phẩm 10 - 20%. Dưới 20% HTX có nền tảng bán hàng online, trong khi kết nối du lịch giúp tăng thu nhập 1,3 - 1,4 lần. 70% HTX chưa có hệ thống quản lý tour, cần hỗ trợ phát triển app, bản đồ số.
Trên 85% du khách ưu tiên trải nghiệm trồng, cắm hoa. Hơn 60% dùng điện thoại để đặt lịch và tìm kiếm dịch vụ. Việc tích hợp công nghệ số (VR, app du lịch) có thể thu hút thêm 20 - 25% khách mới mỗi năm, đặc biệt trong giới trẻ thích chia sẻ trên mạng xã hội.
3.2.2. Tiềm năng phát triển dựa trên nền tảng công nghệ
Việc ứng dụng công nghệ không chỉ tạo ra giá trị sản xuất mà còn mở rộng các dịch vụ du lịch số, điều này thể hiện ở bảng 4.
Bảng 4: Ứng dụng công nghệ trong phát triển làng hoa gắn với du lịch ở Hà Nội

3.3. Các giải pháp công nghệ đề xuất
3.3.1. Giải pháp ứng dụng công nghệ nông nghiệp
- Nhà kính và nhà lưới thông minh:
+ Triển khai các mô hình nhà kính tích hợp cảm biến môi trường và hệ thống tự động điều chỉnh các yếu tố khí hậu.
+ Khuyến khích hợp tác xã và doanh nghiệp đầu tư, đồng thời hỗ trợ tài chính từ chính quyền.
- Hệ thống tưới tự động: Lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt, phun mưa được kết nối với cảm biến độ ẩm nhằm tối ưu hóa lượng nước và phân bón, giảm chi phí vận hành.
- Công nghệ lai tạo và nuôi cấy mô: Hợp tác với Viện Nghiên cứu, Trường Đại học để phát triển các giống cây trồng mới có khả năng chống chịu sâu bệnh, thích nghi với điều kiện khí hậu Hà Nội.
3.3.2. Giải pháp bảo quản, chế biến và vận chuyển sản phẩm
Công nghệ bảo quản: Xây dựng các kho lạnh, trang bị hệ thống làm mát nhanh (rapid cooling) và cảm biến giám sát nhiệt độ, độ ẩm để kéo dài tuổi thọ của hoa.
Chế biến sản phẩm: Ứng dụng công nghệ chế biến hiện đại để tạo ra các sản phẩm từ hoa như hoa sấy khô, tinh dầu, đồ trang trí… từ đó mở rộng giá trị gia tăng.
Vận chuyển hiệu quả: Sử dụng xe lạnh, thùng bảo quản chuyên dụng, tích hợp hệ thống GPS và phần mềm quản lý logistics nhằm đảm bảo điều kiện bảo quản trong quá trình vận chuyển và giảm thiểu rủi ro.
3.3.3. Giải pháp ứng dụng công nghệ phát triển du lịch
- Phát triển website và ứng dụng di động:
+ Xây dựng các nền tảng cung cấp thông tin đầy đủ về lịch sử, văn hóa và sản phẩm của các làng hoa.
+ Tích hợp chức năng đặt tour, mua vé và giới thiệu hình ảnh, video trải nghiệm thực tế.
- Ứng dụng thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR):
+ Xây dựng tour tham quan ảo cho du khách không thể trực tiếp đến tham quan.
+ Tích hợp mã QR và AR tại các điểm du lịch nhằm cung cấp thông tin chi tiết, tạo trải nghiệm tương tác độc đáo.
- Hệ thống quản lý tour du lịch trực tuyến:
+ Phát triển phần mềm điều phối tour, quản lý lịch trình, số lượng khách tham quan và xử lý sự cố trong quá trình vận hành tour.
+ Áp dụng bản đồ số, định vị GPS để tối ưu hóa lộ trình tham quan.
Tóm lại: Tích hợp các giải pháp công nghệ vào quản lý và vận hành các tour du lịch gắn với làng nghề không chỉ giúp nâng cao hiệu quả tổ chức mà còn cải thiện trải nghiệm của du khách. Việc áp dụng các công nghệ hiện đại cần đi kèm với hỗ trợ từ chính quyền, doanh nghiệp, và cộng đồng để đảm bảo tính khả thi và bền vững trong phát triển du lịch làng nghề.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển làng hoa, cây cảnh gắn với du lịch tại Hà Nội đã mang lại những kết quả tích cực, thể hiện qua sự hình thành trên 47 vùng sản xuất tập trung với tổng diện tích hơn 1.800 ha, trong đó khoảng 30% diện tích đang ứng dụng công nghệ cao. Nhiều mô hình tiêu biểu như sản xuất lan hồ điệp tại Đan Phượng, Mê Linh, Thường Tín đã nâng năng suất lên 1,5 lần và giảm chi phí nhân công 20 - 30% nhờ áp dụng nhà kính, hệ thống tưới tự động và cảm biến môi trường.
Cùng với đó, các dịch vụ du lịch sinh thái - trải nghiệm bước đầu phát triển tại một số làng hoa như Hồng Vân, Phù Đổng, góp phần tăng thu nhập cho người dân từ 1,2 - 1,4 lần. Tuy nhiên, mức độ ứng dụng công nghệ còn chưa đồng đều do rào cản về vốn đầu tư (trung bình 10 - 15 tỷ đồng/ha nhà kính), hạ tầng kỹ thuật chưa hoàn chỉnh, nguồn nhân lực thiếu kỹ năng và chính sách hỗ trợ chưa bao trùm nhóm hộ nhỏ, hợp tác xã.
Thực tiễn cho thấy, nhu cầu ứng dụng công nghệ là rất rõ ràng và cấp thiết ở cả 3 trụ cột: sản xuất - tiêu thụ - du lịch. Đầu tư đồng bộ vào hạ tầng công nghệ, đào tạo nhân lực và phát triển hệ sinh thái du lịch thông minh sẽ là nền tảng quan trọng để xây dựng mô hình làng hoa - du lịch hiện đại và bền vững.
Để phát huy hiệu quả, cần tích hợp công nghệ trong cả chuỗi giá trị: từ nhà kính, IoT trong sản xuất; kho lạnh, logistics trong bảo quản - vận chuyển; đến các nền tảng số như VR, ứng dụng du lịch thông minh trong truyền thông và quảng bá. Quá trình này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, doanh nghiệp, người dân và tổ chức hỗ trợ để bảo đảm tính khả thi và phát triển dài hạn. Đây chính là nền tảng để Hà Nội hình thành các làng hoa - du lịch sinh thái kiểu mẫu trong tương lai.
4.2. Đề nghị
Chính quyền địa phương cần lập quy hoạch đồng bộ cho các làng hoa, đồng thời triển khai chính sách hỗ trợ tài chính như vay ưu đãi, miễn giảm thuế nhằm khuyến khích đầu tư vào công nghệ sản xuất và quản lý du lịch.
Người dân và cộng đồng làng nghề cần chủ động tham gia các chương trình đào tạo, nâng cao nhận thức về ứng dụng công nghệ, đồng thời tăng cường hợp tác với doanh nghiệp, hợp tác xã và các cơ quan nghiên cứu để tiếp cận nguồn vốn và kỹ thuật.
Doanh nghiệp và các tổ chức liên quan cần đẩy mạnh đầu tư vào công nghệ số để quảng bá sản phẩm và dịch vụ du lịch, xây dựng các mô hình kết hợp sản xuất - trải nghiệm nhằm nâng cao giá trị và mở rộng thị trường tiêu thụ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngọc Ánh. (2024). Nâng tầm những vùng hoa, cây cảnh thương hiệu Hà Nội. Tạp chí Kinh tế và Đô Thị. Truy cập từ https://kinhtedothi.vn/nang-tam-nhung-vung-hoa-cay-canh-thuong-hieu-ha-noi.html. (Ngày truy cập 22/5/2025)
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. (2022). Quyết định số 4081/QĐ-BNN-TT ngày 26/10/2022 về Đề án phát triển ngành hoa, cây cảnh đến năm 2030.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. (2020). Quyết định số 147/TTg-CP ngày 22/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030.
Đặng Hương Giang. (2025). Một số đề xuất giải pháp quản lý và phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng trưởng xanh và bền vững trên địa bàn thành phố Hà Nội. Truy cập từ: https://sodulich.hanoi.gov.vn/mot-so-de-xuat-giai-phap-quan-ly-va-phat-trien-du-lich-nong-nghiep-nong-thon-theo-huong-tang-truong-xanh-va-ben-vung-tren-dia-ban-thanh-pho-ha-noi.html (Ngày truy câp: 25/5/2025)
Hồng Nhung. (2021). Ứng dụng công nghệ cao trong phát triển hoa, cây cảnh. Tạp Chí Lao động và Sáng tạo. Truy cập từ: https://laodongsangtao.vn/khoa-hoc-cong-nghe/khoa-hoc-cong-nghe/ha-noi-ung-dung-cong-nghe-cao-trong-phat-trien-hoa-cay-canh-40330.html (Ngày truy cập: 25/5/2025)
Phạm Ngọc Sơn. (2024) Hà Nội phát triển du lịch văn hóa làng nghề nhằm thúc đẩy công nghiệp văn hóa. Tạp Chí Cộng sản. Truy cập từ: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/ guest/nam-dinh/-/2018/985602/ha-noi-phat-trien-du-lich-van-hoa-lang-nghe-nham-thuc-day-cong-nghiep-van-hoa.aspx (Ngày truy cập: 2/6/2025)
Vũ Quyên. (2022). Vốn FDI vào nông nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế. Truy cập từ: https://baodautu.vn/von-fdi-vao-nong-nghiep-viet-nam-con-nhieu-han-che-d179794.html (Ngày truy cập: 2/6/2025)
Tổng cục Thống kê. (2021). Báo cáo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ 2020. Truy cập từ: https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/03/ket-qua-dieu-tra-nong-thon-nong-nghiep-giua-ky-2020/ (Ngày truy cập: 12/6/2025)
Application of science and technology in developing flower and ornamental plant village models integrated with iourism in Hanoi
Đặng Văn Đông1, Chu Thị Ngọc Mỹ2*, Nguyễn Văn Tỉnh2
1The Fruit and Vegetable Research Institute (FAVRI)
2The Center for Research and Development of Flowers and Ornamental Plants
Abstract
The research findings indicate that the application of science and technology in traditional flower and ornamental plant villages in Hanoi has significantly contributed to improving production efficiency, product quality, and tourism value. Specifically, the city has established 47 concentrated production zones covering over 1,800 hectares, of which approximately 30% have adopted high-tech solutions such as greenhouses, net houses, automatic irrigation systems, tissue culture, and post- harvest preservation technologies, resulting in productivity increases of 1.3 to 1.5 times. At the same time, the integration of digital technologies- such as websites, mobile applications, virtual reality (VR), and augmented reality (AR)- into tourism promotion and management has helped increase tourism-related income by 1.2 to 1.4 times in several villages, including Hong Van and Phu Dong. However, the level of technology adoption remains uneven due to several barriers, including high investment costs (estimated at VND 10-15 billion per hectare for greenhouse construction), incomplete infrastructure, a shortage of well-trained human resources, and support policies that are not well aligned with the needs of small- scale producers. Based on an analysis of stakeholder needs and potentials, this study proposes a set of integrated solutions, including investment in technological infrastructure, credit support, digital skills training, and the development of smart tourism platforms, aiming to promote the modern and sustainable development of flower villages integrated with tourism in Hanoi.
Keywords: flower villages; ornamental plants; science and technology; tourism; Hanoi; digital technology; sustainable development
Đặng Văn Đông - Viện Nghiên cứu Rau quả
Chu Thị Ngọc Mỹ - Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hoa, Cây cảnh
Nguyễn Văn Tỉnh - Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hoa, Cây cảnh