Triển vọng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam trong năm 2023 từ tầm nhìn Ngân hàng thế giới

01/11/2023 14:18

Trong bối cảnh đối mặt với những rủi ro liên quan đến tăng trưởng thấp ở những nền kinh tế phát triển và Trung Quốc; nhu cầu trong nước yếu đi kéo dài cùng với những yếu kém gia tăng cuả lĩnh vực tài chính trong nước; nhóm Ngân hàng Thế giới đã dự báo, tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2023 sẽ chững lại ở 4,7%, giảm mạnh so với mức tăng 8,02% của năm 2022.

Cho dù tăng trưởng chững lại, nhưng tỷ lệ nghèo vẫn giảm từ 3,2% trong năm 2022 xuống còn 3,0% trong năm 2023. Bài viết đề cập tới những vấn đề nổi bật rút ra trong báo cáo báo kinh tế thường kỳ 6 tháng của khu vực Đông Á-Thái Bình Dương, được W.B công bố vào ngày 01 tháng 10 năm nay.

z4838324052347-6a299b49c75fba9c63e65d99cd326ce7-1698822945.jpg

Điều kiện và những thách thức nổi bật

Vào năm 2022, dân số Việt Nam có trên 98,2 triệu người với GDP 408, 7 tỷ USD, đạt bình quân 4.162,8USSD/người;tạo cơ sở để thoát nghèo và phát triển bền vững.

Nhờ vào những nỗ lực của cả hệ thống chính trị, nhận thức của người nghèo dần thay đổi, cơ bản không còn ỷ lại. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành khá đồng bộ, toàn diện hệ thống cơ chế chính sách hỗ trợ người nghèo, đặc biệt đối với các đối tượng yếu thế, vùng đồng bào các dân tộc và vùng đặc biệt khó khăn. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, và giai đoạn 2021-2025 đã xây dựng và ban hành hệ thống khung khổ pháp thực hiện giảm nghèo bền vững kịp thời, đầy đủ, đảm bảo tính khách quan và minh bạch.

Thông qua chương trình “Cả nước chung tay vì người nghèo” đã động viên, khích lệ, biểu dương những gia đình và cộng đồng nghèo nỗ lực lao động, sản xuất, sáng tạo, vượt khó, vươn lên thoát nghèo bền vững; đồng thời ghi nhận sự đóng góp, hỗ trợ, giúp đỡ thiết thực của các doanh nghiệp, doanh nhân, cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với người nghèo và cộng đồng. 

Với những nỗ lực của toàn dân; quả giảm nghèo đã đạt và vượt mục tiêu, Quốc hội, Chính phủ đề ra: Tỷ lệ hộ nghèo đã từ 9,88% của năm 2015 giảm xuống còn 2,75% năm 2020; năm 2021 giảm xuống còn 2,23% và năm 2022 cò khoảng 1,5% là hộ nghèo.

z4838324402991-b9636661213cfa2c870c9a05102b7149-1698822944.jpg
Việt Nam đạt nhiều thành tựu trong công tác74 xóa đói giảm nghèo (Ảnh: Mai Hương)

Sau phục hồi đầy ấn tượng vào năm 2022, nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều rủi ro, trở ngại cả ở trong nước và bên ngoài. GDP và thương mại toàn cầu yếu đi làm suy giảm sức cầu bên ngoài đối với các mặt hàng xuất khẩu, gây khó khăn và ảnh hưởng đến tăng trưởng. Trong dài hạn, Việt Nam với tham vọng trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 đã gợi ra nhiều thách thức cần nhanh chóng vượt qua.

Để đạt được mục tiêu đề ra, Việt Nam phải nâng cao năng suất qua cải thiện nền tảng căn bản của lĩnh vực tài chính, xử lý những ách tắc về thể chế trong đầu tư công nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt hạ tầng, đồng thời tạo môi trường thuận lợi để khu vực tư nhân trong nước hoạt động hiệu quả cùng với việc xử lý những rủi ro về biến đổi khí hậu và đảm bảo bền vững môi trường.

Thực trạng và vấn đề dăt ra của kinh tế Việt nam

Thời gian gần đây, tăng trưởng GDP đã giảm xuống còn 3,7% trong nửa đầu năm 2023. Thương mại toàn cầu yếu đi làm suy giảm sức cầu bên ngoài đối với các mặt hàng xuất khẩu, gây ảnh hưởng đến tăng trưởng đồng thời nhu cầu trong nước cũng co chiều hướng chậm lại. Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng, nhu cầu trong nước vẫn tiếp tục là động lực chính của tăng trưởng. Điều quan trọng để đảm bảo tăng trưởng trong ngắn hạn là đẩy nhanh tốc độ triển khai đầu tư công và củng cố lòng tin của người tiêu dùng và các nhà đầu tư. Trong dài hạn, Việt Nam đầy tham vọng để  trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.

Để đạt được những mục tiêu này, cần nâng cao năng suất qua cải thiện các nền tảng căn bản của khu vực tài chính, xử lý những ách tắc về thể chế trong đầu tư công nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt hạ tầng, đồng thời tạo môi trường thuận lợi để khu vực tư nhân trong nước hoạt động hiệu quả bên cạnh việc xử lý những rủi ro về biến đổi khí hậu và đảm bảo  bền vững môi trường.

z4838331264019-1296896b771ab1a29c2f7d7aeb257dae-1698822945.jpg
  Kinh tế Việt Nam khởi sắc (Ảnh Vn Economy)

Do sức cầu bên ngoài suy giảm và nhu cầu trong nước yếu đi; tăng trưởng GDP giảm còn 3,7% trong nửa đầu năm 2023; kim ngạch xuất khẩu giảm 12% so cùng kỳ năm trước trong nửa đầu năm 2023. Do lòng tin của người tiêu dùng yếu đi và tăng trưởng thu nhập khả dụng thực chững lại, tăng trưởng tiêu dùng đã giảm từ 6,1% trong nửa đầu năm 2022 xuống còn 2,7% trong nửa đầu năm 2023. Đầu tư tư nhân suy yếu trong khi đầu tư công chỉ bù đắp được phần nào. Với mức giảm từ 3,9% trong nửa đầu năm 2022 xuống còn 1,1% trong nửa đầu năm 2023, đầu tư công đã ảnh hưởng mạnh đến đà tăng trưởng.

Do xuất khẩu suy giảm đã tác động mạnh đến sản xuất công nghiệp, tăng trưởng của khu vực này chỉ còn 1,1% trong sáu tháng đầu năm 2023 so với 7,7% trong nửa đầu năm 2022. Nhờ du lịch tiếp tục phục hồi, ngành dịch vụ đã tăng trưởng 6,3% trong nửa đầu năm 2023. Khu vực nông nghiệp vẫn giữ vững đà tăng trưởng,tăng 3,3% (so cùng kỳ) trong nửa đầu năm 2023, đã tạo bệ đỡ quan trọng cho phát triển kinh tế cả nước.

Cùng với thành công của các ngành kinh tế kỹ thuật, trong cân đối vĩ mô, lạm phát toàn phần đã giảm từ 4,9% (so cùng kỳ) trong tháng 01 năm 2023 xuống còn 2,1% vào tháng 07/2023, do giá cả nhiên liệu giảm và tiêu dùng trong nước yếu đi. Mặc dù vậy, lạm phát cơ bản giảm với tốc độ chậm hơn, từ 5,2% (so cùng kỳ) vào tháng 01 xuống 4,1% trong tháng 07/2023.

Do giá nhà ở và giá cả vật liệu xây dựng tăng cao, tăng trưởng kinh tế chững lại đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình thị trường lao động. Kết quả khảo sát vào tháng 04/2023 cho thấy, 60% doanh nghiệp cho biết họ phải cắt giảm lao động ít nhất ở mức 5%. Tăng trưởng thu nhập khả dụng trong nửa đầu năm 2023 chỉ ở mức 3,4% so cùng kỳ năm trước

Mặc dù gặp nhiều trở ngại bên ngoài, song vị thế kinh tế đối ngoại của Việt Nam vẫn được cải thiện trong Q1/2023, khi tài khoản vãng lai thặng dư chiếm 1,5% GDP. Cán cân thương mại hàng hóa được cải thiện do nhập khẩu suy giảm mạnh hơn xuất khẩu, phần nào đó do kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trung gian giảm xuống. Bên cạnh đó, thâm hụt cán cân thương mại dịch vụ được thu hẹp khi du khách quốc tế quay lại và tài khoản tài chính đạt thặng dư nhờdòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn đầu tư gián tiếp đứng vững. Cán cân thanh toán tổng thể đạt thặng dư,tạo thuận lợi giúp NHNN tích lũy dự trữ ngoại hối đạt 88,7 tỷ US$ (tương đương 3,3 tháng nhập khẩu) trong nửa đầu năm 2023.

Để xử lý tình trạng tăng trưởng chững lại, NHNN đã nới lỏng chính sách tiền để để hỗ trợ các hoạt động kinh tế. Mức lãi suất chính sách chủ chốt đã được cắt giảm tổng cộng lên đến 150 điểm cơ bản từ tháng 03 đến tháng 06/2023. Mặc dù lãi suất giảm, nhưng do đầu tư tư nhân, bao gồm cả lĩnh vực bất động sản giảm, và lòng tin của nhà đầu tư liên tục ở mức thấp nên tăng trưởng tín dụng bị chững lại còn 7,8% trong tháng 06/2023.

Trong bối cảnh bất động sản gặp nhiều khó khăn, chất lượng tài sản của các ngân hàng trở nên xấu đi với nợ xấu từ 1,9% trong tháng 12/2022 tăng lên 2,9% trong tháng 03/2023, buộc NHNN phải tái áp dụng các biện pháp quy định về tái cơ cấu thời hạn trả nợ.

Cân đối ngân sách đến giữa năm 2023 ghi nhận bội thu ước 1,5% GDP, thấp hơn so với 5,2% GDP trong nửa đầu năm 2022, do thu ngân sách giảm 7% còn chi lại  tăng tới 12,8% trong nửa đầu năm 2023.

Đầu tư công tăng lên tăng 43% so cùng kỳ trong sáu tháng đầu năm 2023 đã hỗ trợ cho nền kinh tế, nhưng tốc độ thực hiện theo ước tính vẫn ở mức thấp, chỉ đạt 30,5% dự toán chi đầu tư, do những thách thức cố hữu về triển khai thực hiện.

Triển vọng kinh tế Việt Nam từ góc nhìn Ngân hàng Thế giới

Do sức cầu trong nước và nhu cầu bên ngoài yếu đi, nền kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ chỉ tăng trưởng 4,7% trong năm 2023; sau đó sẽ hồi phục về mức 5,5% trong năm 2024 và 6,0% trong năm 2025.

Nhu cầu trong nước vẫn là động lực tăng trưởng chính, mặc dù tốc độ tăng trưởng có chậm hơn so với một năm trước đó. Lạm phát CPI bình quân trong năm được dự báo ở mức 3,5%, sau đó giảm còn 3,0% trong năm 2024 và 2025 với giả định giá cả năng lượng và lương thực thực phẩm giữ ổn định.

Cân đối ngân sách dự báo có bội chi ở mức 0,7% GDP trong năm 2023 khi chính sách tài khóa vẫn hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Theo nhiều phân tích, Chính phủ sẽ trở lại vị thế tài khóa thận trọng trong năm 2024 để phù hợp với chiến lược phát triển ngành tài chính trong giai đoạn 2021-2030.

Nhờ xuất khẩu phục hồi ở mức khiêm tốn, số khách quốc tế tiếp tục gia tăng và nguồn kiều hối  đứng vững; tài khoản vãng lai được dự báo tiếp tục cải thiện, tỷ lệ nghèo (theo chuẩn nghèo cho những nước thu nhập trung bình thấp) sẽ giảm từ 3,2% trong năm 2022 xuống còn 3,0% trong năm 2023.

Triển vọng phát triển của nền kinh tế nêu trên còn phụ thuộc vào những rủi ro gia tăng trên thị trương toàn cầu và ở trong nước. Tăng trưởng thấp hơn ở những nền kinh tế phát triển và Trung Quốc có thể làm suy giảm nhu cầu bên ngoài về các mặt hàng xuất khẩu. Chính sách tiền tệ bị thắt chặt hơn nữa ở các nền kinh tế lớn và phát triển có thể sẽ tạo áp lực lên tỷ giá đồng nội tệ, dẫn đến dòng vốn tháo chạy ra  nước ngoài. Nhìn từ trong nước, những rủi ro và nguy cơ dễ gây tổn thương tài chính gia tăng, đòi hỏi phải theo dõi sát sao và tiếp tục đổi mới.

Trong ngắn hạn, chính sách tài khóa cần hỗ trợ cho tổng cầu. Ngân sách đầu tư được triển khai đầy đủ, kết hợp với các bước nhằm tháo gỡ khó khăn,ách tắc về thủ tục đầu tư, là cách để nâng vốn đầu tư công lên 7,1% GDP trong năm 2023, so với 5,5% trong năm 2023, qua đó sẽ hỗ trợ cho tổng cầu.

Chính sách tiền tệ nới lỏng được cho là phù hợp, nhưng tiếp tục cắt giảm lãi suất có thể sẽ làm gia tăng chênh lệch lãi suất với các thị trường toàn cầu, có thể gây áp lực lên tỷ giá. Để giảm nhẹ rủi ro tài chính gia tăng, các biện pháp nâng cao tỷ lệ vốn của các ngân hàng và tăng cường khung giám sát ngân hàng là cách để đảm bảo ổn định và khả năng chống chịu của khu vực tài chính./.

TS. Lê Thành Ý