Thế kỷ XX và đầu XXI chứng kiến những bước ngoặt lịch sử: Cách mạng Tháng Tám 1945 khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ; sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nghĩa vụ quốc tế cao cả và vai trò ngày càng chủ động trong gìn giữ hòa bình. Tiếng vọng non sông hôm nay tiếp nối mạch nguồn ấy, khẳng định một chân lý vững bền: Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi; Hồ Chí Minh là linh hồn độc lập dân tộc; sức mạnh toàn dân là nền tảng lực lượng vũ trang nhân dân trong đó quân đội nhân dân và công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong giải phóng, bảo vệ Tổ quốc và đóng góp vì hòa bình nhân loại.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam – nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Khi đất nước chìm trong đêm dài nô lệ, phong trào yêu nước tuy sục sôi nhưng thiếu đường lối và tổ chức cách mạng đúng đắn. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) mở ra bước ngoặt vĩ đại: dân tộc ta có một chính đảng cách mạng chân chính, mang bản chất giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Đảng không chỉ là người tổ chức lực lượng mà còn là người dẫn đường bằng cương lĩnh, đường lối khoa học, phù hợp quy luật phát triển của dân tộc và xu thế thời đại. Từ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, đến đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, từ chiến tranh nhân dân đến kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, mọi thắng lợi đều in dấu ấn bản lĩnh, trí tuệ của Đảng. Đảng là bộ chỉ huy tối cao và trái tim của khối đại đoàn kết, biến khát vọng độc lập – tự do thành hiện thực.
Trong từng giai đoạn, Đảng luôn kiên định mục tiêu, sáng tạo phương thức, linh hoạt sách lược. Khi cần phát động, Đảng chớp thời cơ; khi cần bền bỉ, Đảng kiên trung trường kỳ. Nhờ thế, dân tộc ta đã vượt qua thử thách hiểm nghèo, khó khăn thành động lực, thách thức thành thời cơ.
2. Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam
Hồ Chí Minh – người tìm đường cứu nước – đã kết hợp tinh hoa văn hóa Đông – Tây, truyền thống yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác – Lênin, để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tầm nhìn của Người là tầm nhìn của thời đại; nhân cách của Người là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn dân tộc.
Tài lãnh đạo của Bác thể hiện ở tư duy chiến lược, nghệ thuật chớp thời cơ và kết hợp quân sự – ngoại giao. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, chính quyền thực dân – phong kiến rệu rã, Bác kêu gọi Tổng khởi nghĩa, lãnh đạo nhân dân giành chính quyền trong nửa tháng. Trong kháng chiến chống Pháp, Người đề ra phương châm toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Trong chống Mỹ, Người khẳng định chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.” Đó không chỉ là khẩu hiệu chiến đấu mà là lời thề danh dự của một dân tộc.
Ở Bác, bản lĩnh ngoại giao hòa quyện lòng nhân ái. Người tranh thủ sự ủng hộ quốc tế nhưng giữ vững độc lập tự chủ, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết; kiên quyết mà mềm dẻo, bất khuất mà trọng nghĩa tình. Hồ Chí Minh – với trí tuệ, đạo đức, phong cách – đã trở thành biểu tượng của chân lý, hòa bình, nhân văn, để lại di sản tinh thần bền vững cho dân tộc và bạn bè năm châu.
3. Sức mạnh lòng dân và tinh thần đoàn kết
Một dân tộc nhỏ về diện tích, nghèo về vật chất đã đánh bại hai đế quốc hùng mạnh nhất thế kỷ XX. Bí quyết nằm ở sức mạnh toàn dân – toàn diện.
Trong chống Pháp, mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ. Trong chống Mỹ, hậu phương miền Bắc là bệ đỡ vững chắc cho tiền tuyến miền Nam; hàng triệu thanh niên “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”; các phong trào “ba sẵn sàng”, “năm xung phong” biến lòng yêu nước thành sức mạnh vô địch.
Sức mạnh ấy toàn diện: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Chiến tranh nhân dân là nghệ thuật độc đáo, kết hợp ba thứ quân (chủ lực, địa phương, dân quân du kích) trên thế trận lòng dân. Nhờ đó, dân tộc ta làm nên Điện Biên Phủ 1954 – “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không 1972; và Đại thắng Mùa Xuân 1975, thu non sông về một mối.
Sức mạnh toàn dân còn là sức mạnh văn hóa: niềm tin, bản lĩnh, nhân ái. Văn hóa thấm vào ý chí chiến đấu, nâng đỡ sức chịu đựng, bồi đắp tinh thần đoàn kết, để “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, thành một khối thống nhất.
4. Nghệ thuật kết hợp quân sự – ngoại giao
Trong từng thắng lợi, dân tộc ta luôn kết hợp chặt chẽ giữa chiến trường với bàn đàm phán. Sau chiến dịch Biên giới 1950, ta giành thế chủ động, mở rộng quan hệ quốc tế. Sau Điện Biên Phủ, ta bước vào Hội nghị Giơnevơ 1954, kết thúc thắng lợi kháng chiến chống Pháp. Trong chống Mỹ, sau Tết Mậu Thân 1968 và các chiến dịch quyết định, ta tiến tới Hiệp định Paris 1973, buộc Mỹ rút quân, tạo điều kiện để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trung tướng, PGS.TS Nguyễn Đức Hải - Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược QP/ BQP, tác giả của bài viết
Đó là trí tuệ Việt Nam: không ảo tưởng ngoại giao, không tuyệt đối hóa quân sự; biết thắng từng bước, tiến từng bước, thắng lợi cuối cùng. Đó cũng là nghệ thuật xử lý quan hệ quốc tế: kiên định mục tiêu, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; tôn trọng luật pháp quốc tế, đặt hòa bình, độc lập, phát triển làm giá trị cốt lõi.
Bước vào thời bình, tư duy “kết hợp sức mạnh” tiếp tục phát huy: quốc phòng – an ninh – đối ngoại được kết nối trên nền tảng lợi ích quốc gia – dân tộc, xây dựng môi trường hòa bình ổn định cho phát triển đất nước, đồng thời nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
5. Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng và Bác Hồ sáng lập, rèn luyện; từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Lời thề “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” là cốt lõi bản chất của Bộ đội Cụ Hồ.
Trong kháng chiến chống Pháp, từ đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đến các đại đoàn chủ lực, quân đội ta trưởng thành vượt bậc, với những chiến dịch vang dội: Việt Bắc 1947, Biên giới 1950, Hòa Bình 1951–1952, và đỉnh cao là Điện Biên Phủ 1954. Trong kháng chiến chống Mỹ, lực lượng vũ trang cùng với quân, dân cả nước đập tan mọi chiến lược, từ “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” đến “Việt Nam hóa chiến tranh”; lập nên Ấp Bắc, Vạn Tường, Đường 9 – Khe Sanh, Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Điện Biên Phủ trên không 1972, và Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975.
Sau thống nhất, quân đội bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, làm nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định khu vực. Trong xây dựng đất nước, quân đội là đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, đi đầu trong khoa học – công nghệ quốc phòng, xây dựng khu kinh tế – quốc phòng, tham gia phòng chống, khắc phục thiên tai, giữ gìn biên cương – biển đảo.
Quân đội nhân dân Việt Nam là biểu tượng tập trung nhất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: quyết chiến – quyết thắng, kỷ luật – sáng tạo, gần dân – vì dân. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ khắc sâu trong lòng dân tộc như điểm tựa bình yên của Tổ quốc. Quân đội nhân dân cùng với công an nhân dân luôn kề vai sát cánh trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân; thế trận quốc phòng gắn với thế trận an ninh ngày càng vững chắc.
Là sứ giả hòa bình; tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc. Từ năm 2014, Việt Nam chính thức cử sĩ quan và đơn vị tham gia các Phái bộ của Liên Hợp Quốc. Những “mũ nồi xanh” mang quốc kỳ đỏ sao vàng đã hiện diện tại Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, và các địa bàn Phái bộ khác khi cần, đảm nhiệm Bệnh viện dã chiến cấp 2, đội công binh, sĩ quan tham mưu – liên lạc, góp phần bảo vệ dân thường, ổn định an ninh, hỗ trợ nhân đạo. Hình ảnh bác sĩ quân y Việt Nam tận tụy, chuyên nghiệp; những kỹ sư, chiến sĩ công binh bền bỉ giữa gian khó, đã tạo dựng uy tín, vị thế mới cho Việt Nam – đất nước yêu chuộng hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, trọng nghĩa tình.
Cứu hộ – cứu nạn quốc tế. Khi Thổ Nhĩ Kỳ hứng chịu động đất lớn năm 2023, lực lượng quân đội Việt Nam đã khẩn cấp lên đường, cùng bạn bè quốc tế tìm kiếm, cứu nạn, hỗ trợ y tế – hậu cần, sẻ chia hoạn nạn với nhân dân bạn. Ở Myanmar, trước những thiên tai nghiêm trọng, quân đội ta cũng phối hợp hỗ trợ nhân đạo, thể hiện tinh thần trách nhiệm quốc tế và tình người không biên giới.
Điểm tựa trong thiên tai, dịch bệnh trong nước. Giữa bão lũ miền Trung, sạt lở miền núi, bão tố ven biển, ở đâu gian nguy, ở đó có Bộ đội Cụ Hồ: căng mình hộ đê, bạt núi, mở đường, di dời dân, tìm kiếm – cứu nạn trên sông – biển – núi. Trong đại dịch COVID-19, quân đội nhường doanh trại làm khu cách ly, vận chuyển lương thực – thuốc men, đi từng ngõ, gõ từng nhà để hỗ trợ đồng bào; hình ảnh người chiến sĩ áo xanh bưng từng suất cơm nóng, đỡ từng bình oxy, trở thành biểu tượng nhân ái và kỷ luật.
Từ chiến hào đến bệnh viện dã chiến, từ đồn biên phòng đến phái bộ Liên Hợp Quốc, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện chiến lược “bảo vệ Tổ quốc, từ sớm, từ xa”
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng xung kích, anh hùng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, Nhân dân; trong thời bình là sứ giả hòa bình, điểm tựa của nhân dân, bạn hữu tin cậy của cộng đồng quốc tế.
6. Tiếng vọng non sông – khẳng định chân lý
Tiếng vọng non sông hôm nay ngân vang từ Điện Biên đến Thành cổ Quảng Trị, từ Trường Sơn đến Trường Sa – Hoàng Sa. Đó là tiếng vọng của độc lập – tự do, của hòa bình – công lý, của trách nhiệm – nhân ái. Đó là lời nhắc mỗi người Việt Nam giữ vững niềm tin, bồi đắp bản lĩnh, khơi dậy khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
Lịch sử đã chứng minh: một dân tộc đoàn kết, có Đảng lãnh đạo, có tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, có Quân đội nhân dân trung dũng, có Nhân dân làm hậu phương vững chắc – dân tộc ấy không gì khuất phục nổi. Từ khói lửa chiến tranh đến nhịp sống thời bình, từ chiến thắng kẻ thù xâm lược đến chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, thiên tai, dịch bệnh, tiếng vọng non sông vẫn bền bỉ và ấm áp, vẫy gọi chúng ta kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của nội lực và thời đại, xây dựng – bảo vệ Tổ quốc “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong bối cảnh toàn cầu biến động nhanh chóng, khó đoán định; cần đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết, kết hợp quốc phòng – an ninh – đối ngoại, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc là lựa chọn nhất quán. Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương: cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại. Tinh – gọn – mạnh. Kết hợp sức mạnh truyền thống với khoa học – công nghệ, chuyển đổi số, tác chiến không gian mạng, bảo vệ chủ quyền biển đảo. Để Tổ quốc không bị bất ngờ. Đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia gìn giữ hòa bình nhiều hơn, cứu hộ – cứu nạn hiệu quả hơn.
Đảng tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn ngày càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hoàn thiện thể chế; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể củng cố khối đại đoàn kết, phát huy sức dân – thế nước. Kinh tế độc lập, tự chủ gắn hội nhập quốc tế sâu rộng; văn hóa – giáo dục – khoa học trở thành động lực phát triển bền vững; an sinh xã hội bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau.
Tất cả vì một Việt Nam hùng cường – thịnh vượng, vững vàng bước vào kỷ nguyên mới; kỷ nguyên vương mình của dân tộc. Xứng đáng với tiếng vọng nghìn năm của non sông, vì: độc lập – tự do – hòa bình – hạnh phúc trên dải đất hình chữ S yêu dấu.
TP.HCM, 19.08.2025