Dân ca là một trong những hình thức âm nhạc truyền thống có vị trí đặc biệt trong nền văn hóa Việt Nam. Dân ca Việt Nam có một nền tảng phong phú, đa dạng và đặc sắc, phản ánh sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, khí hậu, lối sống và lịch sử của từng vùng miền. Ba khu vực chính: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, mỗi nơi đều sở hữu những thể loại dân ca đặc trưng. Dân ca không chỉ là sản phẩm nghệ thuật đơn thuần mà còn là biểu hiện sâu sắc của đời sống tinh thần, tình cảm và tâm hồn người Việt. Gắn bó mật thiết với đời sống lao động, sinh hoạt, lễ hội và tín ngưỡng dân gian, dân ca qua bao thế hệ vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ vào những lời ca mộc mạc, giai điệu trữ tình và giàu bản sắc.
Âm hưởng dân ca các vùng miền
Ca khúc mang âm hưởng dân ca Việt Nam là những tác phẩm âm nhạc được sáng tác mới, không phải dân ca truyền thống, nhưng khai thác và Phát triển từ chất liệu âm nhạc dân gian. Những yếu tố như giai điệu, tiết tấu, ca từ, hình ảnh thơ ca, hòa âm hoặc phong cách thể hiện của các làn điệu dân ca vùng miền được sử dụng một cách sáng tạo để truyền tải tinh thần dân tộc trong ngôn ngữ âm nhạc đương đại. Những ca khúc này không sao chép nguyên vẹn dân ca gốc mà vận dụng, cách tân để tạo nên sự giao hòa giữa truyền thống và hiện đại.
Ca khúc mang âm hưởng dân ca Bắc Bộ: Các ca khúc mang âm hưởng dân ca Bắc Bộ thường mang nét đặc trưng như: Giai điệu khoan thai, chậm rãi, hướng nội, thể hiện chiều sâu cảm xúc; Âm hưởng thiết tha, dễ gợi nỗi nhớ, sự gắn bó với quê hương, gia đình, truyền thống; Tính trữ tình sâu lắng giúp dòng nhạc này dễ đi vào lòng người, nhất là với những người từng trải hoặc có ký ức gắn bó với vùng đất Bắc Bộ.

Tiết tấu của các ca khúc mang âm hưởng dân ca Bắc Bộ thường chậm, nhấn nhá rõ ràng. Tiết tấu thường chậm, đôi khi gần như theo nhịp điệu nói, giúp người hát diễn đạt rõ ràng từng từ, từng ý. Từng câu hát thường được luyến láy, ngân nga, tạo cảm giác như lời ru, lời tâm tình. Nhờ đó, ca khúc dễ gây ấn tượng bằng chiều sâu nội dung và sự tinh tế trong cách thể hiện.
Các ca khúc mang âm hưởng dân ca Bắc Bộ thường ảnh hưởng bởi lối hát đối đáp, đặc trưng của quan họ Bắc Ninh. Trong các ca khúc có âm hưởng quan họ, câu hát của người này như là lời mời gọi, gợi mở, và câu hát của người kia là lời đáp lại đầy duyên dáng, nhẹ nhàng, tế nhị. Điều này tạo nên sự giao duyên âm nhạc rất đặc biệt, vừa mang tính biểu diễn vừa gợi cảm xúc dân gian sâu sắc.
Nhiều thể loại dân ca, nghệ thuật truyền thống của miền Bắc được sử dụng làm chất liệu chính như: Quan họ: Trữ tình, tinh tế, có lối hát đối đáp nam – nữ; Hát ru: Dịu dàng, du dương, mang tính ru ngủ và gợi tình mẫu tử; Ca trù: Mang tính bác học, cổ truyền, với cấu trúc âm nhạc phức tạp và giàu chất thi ca; Chèo: Tươi vui, hài hước, nhưng cũng rất biểu cảm trong những làn điệu buồn, bi. Ví dụ ca khúc “Chiều phủ Tây Hồ” (Phú Quang), ca khúc sử dụng chất liệu ca trù, một loại hình âm nhạc truyền thống Bắc Bộ với giai điệu chậm, cổ truyền, kết hợp âm nhạc hiện đại và nhạc cụ truyền thống như đàn đáy, phách để tạo không khí linh thiêng, trầm mặc gợi cảm xúc thiêng liêng về vùng đất linh địa – phủ Tây Hồ.
Ca khúc mang âm hưởng dân ca Bắc Bộ nổi bật bởi tính trữ tình sâu lắng, tiết tấu chậm rãi, cùng với sự kết hợp chất liệu âm nhạc dân gian đặc trưng như quan họ, ca trù, hát ru, chèo…Sự tinh tế trong giai điệu và lời ca khiến dòng nhạc này không chỉ giữ gìn được bản sắc truyền thống, mà còn chạm sâu vào cảm xúc người nghe ở mọi thời đại.
Ca khúc mang âm hưởng dân ca Trung Bộ: Các ca khúc mang âm hưởng dân ca Trung Bộ, đặc biệt ở vùng Bắc Trung Bộ như Nghệ Tĩnh hay cố đô Huế, thường mang giai điệu tha thiết, trầm lắng, đậm chất tâm tình. Nhịp điệu chậm rãi, khoan thai, giúp ca từ và cảm xúc được kéo dài và thấm sâu vào lòng người nghe. Các ca khúc thường có chiều sâu tự sự, như những lời kể chuyện đầy cảm xúc, gợi lại cuộc sống vất vả, tình người sâu đậm và tâm trạng lắng đọng của con người miền Trung, vốn chịu nhiều thiên tai, gian khó.
Một đặc điểm rất dễ nhận diện ca khúc mang âm hưởng dân ca Trung Bộ là nỗi buồn đặc trưng nhưng sâu sắc và nhân văn. Giai điệu buồn nhưng mang vẻ đẹp nội tâm, gợi thương, gợi nhớ hơn là than vãn bi thương. Chính nhờ sắc thái ấy, các bài hát mang âm hưởng dân ca Trung Bộ thường dễ lay động người nghe ở chiều sâu cảm xúc.
Ca khúc mang âm hưởng dân ca Trung Bộ thường lấy cảm hứng từ các thể loại truyền thống như: Ví, giặm Nghệ Tĩnh với những đặc trưng là giàu tính tự sự, lời ca mộc mạc, dễ đi vào lòng người. Giai điệu thường mảnh mai, mềm mại, mang chất thổ ngữ đặc trưng. Thường thể hiện tình quê, tình người, nỗi nhớ nhung da diết); Hò Huế thể hiện sự uyển chuyển, quý phái, phù hợp với lối hát cung đình xưa. Có thể mang tính kể chuyện hoặc trữ tình nhẹ nhàng. Giai điệu thanh thoát, sâu lắng, giàu âm sắc văn hóa cố đô; Hò khoan Lệ Thủy xuất phát từ lao động sản xuất, thường là hình thức giao duyên đối đáp. Giai điệu mộc mạc, dân dã, gần gũi đời sống. Có nhịp điệu rõ ràng, phóng khoáng và tươi tắn hơn so với ví, giặm.
Ví dụ ca khúc “Giận mà Thương” (Trần Hoàn) lấy chất liệu từ ví giặm Nghệ Tĩnh, thể loại dân ca đậm chất trữ tình của vùng đất Nghệ An - Hà Tĩnh. Giai điệu chậm, luyến láy, ca từ mộc mạc mà sâu sắc. Hình ảnh “Em xa anh nghe câu dân ca. Giận mà thương sao mà da diết thế. Ơi câu ca nặng tình năng nghĩa. Có lúc nào em giận anh không?” vừa dân dã vừa chất chứa tình cảm gắn bó, thủy chung.
Hay ca khúc “Huế Thương” (An Thuyên) sử dụng chất liệu giai điệu dân ca Huế, thể hiện nỗi nhớ da diết về quê hương. Ca từ giản dị, đậm chất vùng miền, thể hiện tình cảm sâu nặng với mảnh đất miền Trung: “Sông Hương tấp nập tìm rang được chừ. Không nguôi kỷ niệm vòng tay học trò”. Giai điệu chậm rãi, âm hưởng nhẹ nhàng và trầm lắng, đúng chất tự sự.
Ca khúc mang âm hưởng dân ca Trung Bộ đậm chất tự sự, nhẹ nhàng mà sâu lắng, thể hiện rõ nỗi niềm, tâm trạng và vẻ đẹp nội tâm của con người miền Trung. Những chất liệu như ví giặm, hò Huế, hò khoan không chỉ là ngôn ngữ âm nhạc mà còn là linh hồn văn hóa được chuyển tải tinh tế qua các sáng tác đương đại.
Ca khúc mang âm hưởng dân ca Nam Bộ: Các ca khúc mang âm hưởng dân ca Nam Bộ thường có giai điệu phóng khoáng, tiết tấu linh hoạt và vui tươi với những đặc trưng tự do, mộc mạc, khoáng đạt, phản ánh đời sống sinh hoạt gắn liền với sông nước, đồng ruộng và những con người hào sảng, cởi mở. Giai điệu dễ nhớ, dễ hát, sử dụng nhiều âm điệu mềm mại, lả lơi, có nhấn nhá và luyến láy đặc trưng của ngôn ngữ phương Nam. Tiết tấu linh hoạt lúc chậm rãi để trải lòng, lúc rộn ràng vui tươi trong những bài hò đối đáp hay kể chuyện dân gian. Điều này làm cho âm nhạc Nam Bộ dễ tiếp cận và đi vào đời sống cộng đồng.
Ca khúc mang âm hưởng dân ca Nam Bộ không chỉ trữ tình mà còn giàu tính kể chuyện, đôi lúc pha yếu tố châm biếm nhẹ nhàng, hài hước dí dỏm, đúng với tính cách hồn hậu, chân chất mà thông minh của người miền Tây. Phong cách thể hiện thường thoải mái, không gò bó, thể hiện sự “thật như đếm” trong từng lời ca, tạo cảm giác thân quen, gần gũi với người nghe.
Ca khúc mang âm hưởng dân ca Nam Bộ thường khai thác các hình thức truyền thống đặc sắc như: Điệu lý (Lý con sáo, Lý cây bông, Lý qua cầu...) có giai điệu đơn giản, nhẹ nhàng, vui nhộn. Phù hợp để chuyển tải cảm xúc yêu thương, mến mộ, tình quê. Dễ hát, dễ phổ cập trong sinh hoạt cộng đồng; Hò Nam Bộ (như hò đối, hò mái nhì, hò chèo ghe...) phản ánh sinh hoạt lao động, giao tiếp thường ngày. Giai điệu phóng khoáng, tiết tấu nhịp nhàng như nhịp chèo xuồng, kéo vó. Thường dùng để diễn tả tình cảm trai gái, nỗi niềm xa quê, hoặc tiếng lòng của người lao động; Cải lương và đờn ca tài tử là hình thức âm nhạc sân khấu tiêu biểu, giàu tính nghệ thuật của người miền Nam. Mang màu sắc bi tráng, tự sự, kết hợp giữa hát và nói lối. Có kỹ thuật trình diễn sâu sắc, luyến láy điêu luyện.
Tiêu biểu như ca khúc “Bài ca đất phương Nam” (Lư Nhất Vũ & Lê Giang) thể hiện đậm nét âm hưởng đờn ca tài tử, loại hình nghệ thuật đặc sản của vùng đất Nam Bộ. Giai điệu hào sảng nhưng sâu lắng, miêu tả rõ nét tính cách và lịch sử của người dân phương Nam. Ca từ mộc mạc, hình ảnh dung dị nhưng giàu cảm xúc, thể hiện niềm tự hào và tình yêu quê hương. Hay ca khúc “Anh Ba Hưng” (Trần Kiết Tường) sử dụng hình thức lý dân gian Nam Bộ, vui nhộn, tươi tắn như chính tên gọi. Giai điệu dễ thương, lời ca chất phác, thể hiện tình cảm trong sáng và hóm hỉnh. Phù hợp với tâm hồn lạc quan, yêu đời của người dân miền Tây sông nước.
Ca khúc mang âm hưởng dân ca Nam Bộ nổi bật bởi tính phóng khoáng, vui tươi và đậm chất đời thường. Những chất liệu như điệu lý, hò hay đờn ca tài tử không chỉ góp phần gìn giữ văn hóa dân gian mà còn tạo nên bản sắc âm nhạc độc đáo, đầy sức sống trong kho tàng ca khúc Việt Nam hiện đại.
Tính chất của ca khúc mang âm hưởng dân ca
Về giai điệu: Gần gũi với dân ca vùng miền, thường dựa trên thang âm ngũ cung, có nhiều kỹ thuật rung láy và tiết tấu đặc trưng. Ca khúc mang âm hưởng dân ca miền Bắc thường có giai điệu mềm mại, đối đáp nhịp nhàng như trong quan họ Bắc Ninh. Miền Trung thường có giai điệu chậm rãi, mang tính tự sự, buồn man mác như trong ví dặm Nghệ Tĩnh, hò Huế. Trong khi, miền Nam thường có giai điệu tươi vui, phóng khoáng, giàu tính ngẫu hứng như các điệu lý và đờn ca tài tử. Việc sử dụng màu sắc âm nhạc riêng của từng vùng giúp khán giả dễ dàng nhận ra "chất dân ca" dù bài hát được sáng tác mới.
Thang âm ngũ cung là đặc điểm nổi bật trong âm nhạc dân gian Việt Nam. Giai điệu của các bài hát mang âm hưởng dân ca thường sử dụng 5 nốt chính (không đủ 7 nốt như trong âm nhạc phương Tây), tạo nên cảm giác: Mộc mạc, gần gũi với tai nghe của người Việt; Dễ nhớ, dễ hát, phù hợp với lối truyền khẩu dân gian.
Luyến láy là một trong những dấu ấn nổi bật của âm nhạc dân gian, được thể hiện qua: Ngắt, nhấn, vuốt, rung các âm cuối câu hát; Chuyển nốt mềm mại, không dứt khoát như nhạc Tây phương. Trong ca khúc mang âm hưởng dân ca, kỹ thuật này tạo nên: Sự truyền cảm sâu sắc, mang đậm tâm tình người Việt. Tính biểu cảm cao, thích hợp với nội dung trữ tình, tự sự hoặc sinh hoạt đời thường.
Tiết tấu trong các ca khúc này không đều đặn như nhạc pop mà thường linh hoạt theo nhịp điệu lời ca, có thể chậm rãi, nhanh nhẹn hoặc ngẫu hứng, hoặc mô phỏng các hình thức sinh hoạt dân gian như hò kéo lưới, hát ru, lý đối đáp, v.v. Tiết tấu dân gian thường nhẹ nhàng nhưng có lực đẩy cảm xúc, kết hợp chặt chẽ với lời ca để tạo nên chất nhạc đặc trưng.
Giai điệu trong ca khúc mang âm hưởng dân ca mang linh hồn của văn hóa bản địa, thể hiện qua cách dùng thang âm, kỹ thuật luyến láy, tiết tấu và hơi thở vùng miền. Nó không chỉ giúp người nghe dễ dàng nhận ra nguồn gốc văn hóa âm nhạc mà còn tạo sự cộng hưởng cảm xúc với truyền thống dân tộc.
Về ca từ: Giàu chất thơ, sử dụng hình ảnh dân gian, ngôn ngữ mộc mạc, đời thường hoặc mang phong vị cổ. Điều này thể hiện qua: Ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm xúc, giàu nhạc tính; Cách dùng ẩn dụ, so sánh, nhân hóa quen thuộc trong thi ca dân gian. Ví dụ: “Ơi con sông quê, con sông quê, sông còn nhớ chăng nơi ta ngồi ngóng mẹ. Vời vợi tuổi thơ một xu bánh đa vừng…”
(Bài hát Khúc Hát Sông Quê – Thơ: Lê Huy Mậu, Nhạc: Nguyễn Trọng Tạo). Câu hát vừa giản dị vừa đậm chất thơ, khơi gợi ký ức và tình cảm quê hương.
Ca từ thường lấy cảm hứng từ những hình ảnh quen thuộc trong đời sống nông thôn Việt Nam, như: Cây đa, bến nước, con trâu, lũy tre, giếng làng…Hình tượng mẹ, cha, người nông dân, cô gái làng quê…Những hình ảnh này không chỉ gợi sự gần gũi mà còn góp phần gắn kết người nghe với truyền thống văn hóa dân tộc. Như lời hát “Mẹ thương con có hay chăng. Thương từ khi thái ngén trong lòng. Mấy năng sớm chiều mưa ròng. Chín tháng so chin năm gian khó tính khôn cùng…” (Bài Mẹ yêu con – Nguyễn Văn Tý). Hình ảnh mộc mạc nhưng giàu sức nặng tinh thần và cảm xúc.
Khác với ca từ trau chuốt trong các thể loại nhạc hiện đại, ca từ mang âm hưởng dân ca thường dùng lối nói giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày, gần gũi với người lao động. Sử dụng nhiều từ ngữ thuần Việt, ít vay mượn từ Hán – Việt hay nước ngoài. Điều này giúp ca khúc dễ nghe, dễ hiểu, dễ lan tỏa trong cộng đồng.
Ca từ trong các ca khúc mang âm hưởng dân ca, thường mang phong vị cổ không làm ca từ cũ kỹ, mà tạo chiều sâu văn hóa và tăng giá trị nghệ thuật cho bài hát. Một số bài hát chọn dung những từ ngữ cổ, mang nét xưa như “trăng tà”, “bóng nguyệt”, “chân quê”, “mối tơ vương”…Hay những câu chữ có nhịp điệu như ca dao, tục ngữ, tạo cảm giác thân thuộc và trang trọng. Ca từ trong các ca khúc mang âm hưởng dân ca không chỉ đơn thuần để truyền tải nội dung, mà còn là phần hồn của bài hát. Chất thơ, hình ảnh dân gian, ngôn ngữ đời thường và phong vị cổ giúp khơi gợi bản sắc dân tộc, nuôi dưỡng cảm xúc và tạo nên một dấu ấn riêng biệt trong lòng người nghe.
Về nhịp điệu: Ca khúc mang âm hưởng dân ca thường có nhịp điệu linh hoạt, có thể mô phỏng các hình thức hò đối đáp, ru con, kéo lưới, lý… tạo nên cảm giác quen thuộc và sinh động. Tính linh hoạt trong nhịp điệu không bị ràng buộc bởi những công thức cố định, mà có thể thay đổi uyển chuyển theo câu hát, cảm xúc và chất liệu dân ca vùng miền. Lúc khoan thai nhẹ nhàng như lời ru, lúc dồn dập mạnh mẽ như tiếng hò lao động. Điều này tạo nên sự phong phú trong cảm xúc và phù hợp với nhiều chủ đề khác nhau: tình yêu quê hương, tình mẫu tử, lao động sản xuất, nỗi niềm cá nhân...
Nhịp điệu thường được thiết kế dựa trên mô hình của các thể loại dân ca truyền thống, giúp tái hiện không khí sinh hoạt dân gian quen thuộc như: Hò đối đáp (Bắc Bộ, Trung Bộ) thường có nhịp điệu nhấn – nghỉ xen kẽ, tạo cảm giác trò chuyện qua lại. Đồng thời, gợi nhớ cảnh hát giao duyên, mang màu sắc đối thoại, tự nhiên và sống động; Hát ru (phổ biến cả ba miền) thường có nhịp chậm, đều đặn, êm ái như nhịp võng đưa, tạo cảm giác dịu dàng, trìu mến, mang hơi thở của tình mẫu tử; Hò kéo lưới, hò xay lúa, hò giã gạo (Nam Bộ, Trung Bộ) có nhịp điệu thường mạnh, chắc, đều, mô phỏng động tác lao động tập thể, tạo không khí đoàn kết, vui tươi, gắn kết cộng đồng; Điệu lý Nam Bộ (lý con sáo, lý cây bông...) có nhịp điệu vui tươi, nhẹ nhàng, thường dùng nhịp 6/8, tiết tấu lặp lại, tạo cảm giác dân dã, mộc mạc mà duyên dáng.
Nhịp điệu trong các ca khúc mang âm hưởng dân ca thường mô phỏng đời sống sinh hoạt thường nhật, khiến người nghe cảm thấy gần gũi như đang sống trong không gian làng quê. Khi đưa vào môi trường âm nhạc hiện đại, yếu tố nhịp điệu dân gian giúp ca khúc mang âm hưởng dân ca cần giữ được bản sắc truyền thống mà vẫn giàu sức sống mới.
Nhịp điệu trong ca khúc mang âm hưởng dân ca là chiếc cầu nối giữa không gian âm nhạc hiện đại và hồn cốt dân gian. Sự linh hoạt và khả năng mô phỏng các hình thức dân ca truyền thống giúp tạo nên chất riêng cho dòng nhạc này, vừa chân quê, vừa sinh động, góp phần làm phong phú thêm bản sắc âm nhạc Việt Nam.
Về phong cách thể hiện: Khi thể hiện các ca khúc mang âm hưởng dân ca, cần kết hợp yếu tố âm nhạc cổ truyền với kỹ thuật biểu diễn hiện đại, đôi khi pha trộn phong cách âm nhạc hàn lâm. Một đặc điểm nổi bật của ca khúc mang âm hưởng dân ca là sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại trong cách thể hiện. Yêu cầu về giai điệu và cảm xúc vẫn giữ hồn dân gian, mô phỏng cách hát dân ca vùng miền: quan họ, cải lương, lý, hò, ru…Về kỹ thuật thanh nhạc hiện đại được vận dụng để nâng cao độ vang, độ ngân, xử lý cường độ giúp ca khúc phù hợp với không gian sân khấu lớn hoặc phòng thu. Ví dụ khi thể hiện ca khúc Trên đỉnh Phù Vân (Phó Đức Phương) sử dụng chất liệu dân gian ca trù kết hợp kỹ thuật thanh nhạc hiện đại, tạo nên âm hưởng đầy huyền bí và giàu kịch tính. Hay khi thể hiện ca khúc Mái đình làng biển (Nguyễn Cường) mang âm hưởng ca trù nhưng có phần thể hiện mạnh mẽ, phóng khoáng theo lối pop-rock.
Một số ca khúc mang âm hưởng dân ca còn sử dụng các yếu tố của âm nhạc bác học (hàn lâm) để nâng tầm cảm xúc hoặc tạo hiệu ứng nghệ thuật cao. Yêu cầu khi phối khí theo kiểu giao hưởng có sự kết hợp giữa nhạc cụ truyền thông (đàn, tranh, sáo, nhị…) với một số nhạc cụ hiện đại (kèn, trống, đàn điện tử…).
Nghệ sĩ khi trình bày ca khúc mang âm hưởng dân ca, cần sử dụng kỹ thuật belcanto (hát đẹp) nhưng vẫn giữ được độ mềm, luyến láy dân gian. Đồng thời, phong cách thể hiện không đóng khung trong một hình thức, mà linh hoạt theo chủ đề ca khúc (truyền thống hay hiện đại) và không gian biểu diễn (sân khấu dân gian, truyền hình, lễ hội, giao hưởng…). Nhờ vậy, ca khúc mang âm hưởng dân ca vừa giữ được cốt cách dân tộc, vừa thích nghi với khán giả đương đại, từ nông thôn đến thành thị, từ người lớn tuổi đến giới trẻ.
Phong cách thể hiện là yếu tố then chốt làm nên bản sắc và sức sống của ca khúc mang âm hưởng dân ca. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân gian và hàn lâm, giúp dòng nhạc này giữ được chiều sâu văn hóa dân tộc mà vẫn mở rộng biên độ sáng tạo và tiếp cận.
Về nhạc cụ phối khí: Đối với ca khúc mamg âm hưởng dân ca, thường sử dụng nhạc cụ dân tộc như đàn tranh, sáo trúc, đàn nguyệt, đàn bầu…, đồng thời kết hợp với nhạc cụ phương Tây để tạo màu sắc mới lạ. Trong các ca khúc mang âm hưởng dân ca, nhạc cụ dân tộc giữ vai trò truyền tải bản sắc văn hóa vùng miền, đồng thời góp phần làm nổi bật chất liệu dân gian trong giai điệu. Đàn tranh, đàn nguyệt, đàn bầu, sáo trúc, nhị, đàn tính, trống cơm, đàn đáy, T’rưng… là những nhạc cụ thường xuất hiện. Mỗi nhạc cụ mang một màu sắc âm thanh đặc trưng, góp phần tái hiện không gian văn hóa của từng vùng miền: đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ…Ví dụ khi phối khí ca khúc Bài ca đất Phương Nam (Lư Nhất Vũ) thường sử dụng những nhạc cụ như đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tranh…để tái hiện miền sông nước Nam Bộ. Khi phối khí ca khúc Tình ca Tây Nguyên (Hoàng Vân) gắn liền với âm thanh của đàn T’rưng, đặc trưng vùng núi Tây Nguyên.
Không dừng lại ở yếu tố truyền thống, nhiều ca khúc dân gian đương đại pha trộn thêm nhạc cụ phương Tây như: Guitar, piano, violin, cello, trống jazz, keyboard, synth…Việc phối khí này giúp tăng tính hiện đại, mở rộng cảm xúc, tăng hiệu quả nghệ thuật, đồng thời thu hút người nghe trẻ và phù hợp với các sân khấu lớn. Ví dụ, khi phối khí ca khúc Trầu Không (Nguyễn Quang Hưng), một ca khúc mang âm hưởng ca trù Bắc Bộ thì kết hợp giữa đàn nguyệt, tỳ bà, kèn sona, trống dân tộc với guitar, keyboard…
Sự kết hợp tinh tế giữa nhạc cụ truyền thống và hiện đại không chỉ giữ được cốt cách dân gian, mà còn mở đường cho một dòng nhạc mới như “Dân gian đương đại”, với phần hòa âm, phối khí tinh tế, giàu sức gợi, gần gũi với tai nghe hiện đại. Sự sáng tạo này góp phần bảo tồn, lan tỏa giá trị dân gian theo cách phù hợp với thời đại số.
Nhạc cụ phối khí là một trong những yếu tố dễ nhận diện nhất của ca khúc mang âm hưởng dân ca. Nó không chỉ giữ gìn bản sắc âm nhạc truyền thống, mà còn là cầu nối giúp những giá trị xưa cũ hòa quyện vào đời sống âm nhạc hiện đại, tạo nên sức sống lâu dài và hấp dẫn cho dòng ca khúc này.
Ca khúc mang âm hưởng dân ca đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị âm nhạc dân tộc. Đây là cầu nối đưa tinh thần dân gian đến gần hơn với công chúng hiện đại, đặc biệt là giới trẻ. Không chỉ giúp dân ca tiếp cận rộng rãi hơn trong đời sống âm nhạc hôm nay, những ca khúc này còn khơi dậy niềm tự hào văn hóa, giáo dục thẩm mỹ, và nuôi dưỡng tình yêu quê hương đất nước. Dòng nhạc này là minh chứng sống động cho sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, nơi hồn cốt dân tộc được giữ gìn và phát triển bằng sáng tạo nghệ thuật./.