An ninh nguồn nước, sự sống còn của nhân loại và giải pháp ứng phó của Việt Nam

15/02/2024 17:29

Biến đổi khí hậu diễn ra khốc liệt khiến nguy cơ mất an ninh nguồn nước ngày càng cấp bách. Trước thềm Hội nghị lần thứ 28 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP28), bảo đảm an ninh nguồn nước đã trở thành mệnh lệnh của sự tồn vong. Với chủ đề:“Nước là sự sống, là thực phẩm”, Ngày Lương thực Thế giới năm 2023 đã hướng tới không để một ai bị bỏ lại ở phía sau” (Leave no one behind”.

Theo Tổ chức Sông ngòi Thế giới (WRI,) khoảng ½ nhân loại đang trong tình trạng “căng thẳng nước sạch” Chính phủ nhiều nước phải ban bố tình trạng khẩn cấp tại những khu vực khan hiếm nhằm ứng phó với nguy cơ thiếu nước. Tại Nam Á, hơn 74% dân số sống trong cảnh thiếu nước; còn ở Trung Đông và Bắc Phi, con số này đã lên tới 83% .

Tài nguyên nước là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội .Trung bình mỗi ngày, một người cần uống từ 2 đến 4 lít nước. Bảo vệ an ninh hay gìn giữ tài nguyên nước là trọng tâm để các quốc gia đạt được mục tiêu trong Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững (SDGs).

 Từ thực tế diễn ra, lãnh đạo Nhà nước Việt Nam ngày càng chú trọng và có những biện pháp mạnh để đảm bảo an ninh nguồn nước. Bài viết đề cập đến một số nội dung chủ yếu về chủ đề này.

Tài nguyên nước toàn cầu và ở Vệt Nam

Trên hành tinh, nước bao phủ 71% bề mặt Trái đất, nhưng chỉ có 2,5% thích hợp cho cuộc sống và được sử dụng vào sản xuất công-nông nghiệp. Dự báo phân bổ của WRI cho biết, 60% số cây trồng bị căng thẳng về nước, nhiều hồ chứa, sông suối dần cạn kiệt và nguồn nước ngầm đang bị suy giảm rất nhanh.

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trên 80% số bệnh tật liên quan đến ô nhiễm nguồn nước và môi trường. Tại Việt Nam, mỗi năm có 9.000 trường hợp tử vong và trên 200.000 người mắc bệnh ung thư liên quan đến nguồn nước không an toàn.

Lượng nước ngọt bị suy bị giảm nhanh do quản lý kém và khai thác nước ngầm quá mức cùng với ô nhiễm, BĐKH và sự cạnh tranh gia tăng. Hãng tin Bloomberg cho biết; giao dịch buôn bán nước sạch đã trở thành ngành kinh doanh đầy triển vọng; còn The New York Times cho rằng, nước ngầm là nguồn tài nguyên thiên nhiên thiết yếu nhưng không được quản lý hợp lý. Nhiều Chính phủ hầu như không còn vai trò trong quản lý nước ngầm, trong khi các địa phương lại thực hiện hàng loạt các quy định yếu kém (Báo Nhân dân 16.10.2023) 

Trên 80% lượng nước thải ra môi trường không qua xử lý, gần một tỷ tấn thực phẩm (17% tổng số thực phẩm sản xuất) bị bỏ phí hằng năm. Đây là sự lãng phí to lớn các nguồn tài nguyên quý giá, đặc biệt là nước dùng vào sản xuất lương thực thực phẩm .

anh-chup-man-hinh-2024-02-15-luc-172720-1707992859.png

Thay đổi nhận thức là mấu chốt để thay đổi thực trạng an ninh nguồn nước. Tổng Giám đốc FAO nhấn mạnh: Phải ngừng việc coi nước là tài nguyên vô hạn, trọng tâm để giải quyết thách thức trước mắt phải là những kế hoạch phối hợp ở cấp quốc gia và khu vực. Bảo đảm an ninh nguồn nước cho sinh hoạt là vấn đề cần có cơ chế, chính sách đồng bộ. Nâng cao chủ động về nguồn, đồng thời với bảo đảm an toàn cấp nước trong mọi tình huống, đặc biệt đối với các đô thị lớn là một đòi hỏi cấp bách hiện nay.

Tài nguyên nước và những thách thức an ninh nguồn nước Quốc gia

Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên nước phong phú trong hệ thống các sông, hồ và dưới lòng đất. Cả nước hiện có 3.450 sông, suối từ 10 km trở lên. Tổng trữ lượng nước mặn đạt 830 - 840 tỷ m3; trong đó, các sông, suối xuyên biên giới chuyển vào 520 tỷ m3 (chiếm 63%). Tổng tài nguyên nước dưới đất đươc xác định khoảng 91 tỷ m3; riêng nước ngọt khai thác l đạt 3,6 tỷ m3/năm, còn có thể nâng lên tới 22,3 tỷ m3/năm (Tổng cục Thống kê 2021).

Là quốc gia có lượng mưa lớn, sông, suối ở các lưu vực với diện tích 331.000 km2,  Ngoài hệ thống sông ngòi, cả nước có hơn 7.160 hồ chứa thủy lợi với tổng dung tích 70 tỷ m3 và lượng mưa trung bình năm từ 1.940 đến1.960 mm ,tương đương 640 tỷ m3/năm. 50 năm qua, nhu cầu nước của Việt Nam đã tăng gấp ba lần, nhưng việc sử dụng lại thiếu hiệu quả và còn nhiều lãng phí. Tổng lượng nước sử dụng vào nông nghiệp chiếm hơn 80%,song mỗi m3 nước chỉ tạo ra 2,37 USD GDP, thấp hơn nhiều lần so với mức trung bình toàn cầu là 19,42 USD

Tính đến tháng 6/2023, số đô thị cả nước đã lên tới 898, đến năm 2030, tỷ lệ đô thị sẽ lên 45% và khoảng 46-47 triệu dân sống ở khu vực này. Cùng với phát triển kinh tế-xã hội, việc sử dụng nước ngày một gia tăng. Nhu cầu nước vào năm 2025 sẽ lên120,4 tỷ m3, tăng 3% so với hiện tại. Con số tương ứng của năm 2030 là 121,5 m3và và năm 2050 là 130,9 tỷ m3, lần lượt tăng 3,9% và 12%. Với sự gia tăng nhanh chóng, vấn đề liên quan đến nước thải và cấp nước sinh hoạt đang ngày càng trở nên cấp thiết.(Tổng cục Khí tượng Thủy văn 2021)

Lượng nước mặt phụ thuộc vào nguồn nước ngoại sinh, trong khi trữ lượng nước ngầm đang sụt giảm ở nhiều nơi do khai thác quá mức và diện tích thảm rừng sinh thủy tự nhiên chưa được phục hồi. Nước mặt, nước ngầm bị ô nhiễm do hoạt động xả thải chưa qua xử lý từ các cơ sở sản xuất. Ngoài ra, tác động của BĐKH, nước biển dâng cao. Tình trạng mặn xâm nhập cùng với thời tiết cực đoan đã làm hạn hán kéo dài và mưa lũ ngày càng khủng khiếp hơn.

Phân tích thực trạng, các nhà nghiên cứu cho rằng, nhiều vấn đề đe dọa an ninh nguồn nước xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan. Do tình trạng ô nhiễm nguồn nước, do xả thải bừa bãi không qua xử lý vào sông, suối, kênh, rạch hoặc chôn lấp không đúng quy chuẩn; do sử dụng hóa chất bừa bãi trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng như tình trạng vi phạm hành lang bảo vệ nguồn nước, làm biến đổi dòng chảy, suy giảm diện tích đất rừng và nguồn sinh thủy (Tổng cục Thống kê 2021, Lê thành Ý 2021).

Tuy có hệ thống sông ngòi dày đặc với tài nguyên nước mặt dồi dào, nhưng là quốc gia nằm về phía cuối của các con sông lớn, Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nguồn nước ngoại sinh. Khi các quốc gia thượng nguồn đắp đập, ngăn dòng thì lập tức ảnh hưởng tới sinh kế của hàng triệu người dân. Các sông, suối xuyên biên giới hằng năm chuyển vào gần 2/3 tổng lượng nước mặt;. Nguồn nước nội sinh chỉ đạt 4.200m3/người/năm, thấp hơn so với trung bình của Đông Nam Á là 4.900m3/người/năm.

Đánh giá về thách thức đối với an ninh nguồn nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cho rằng, sự phụ thuộc vào lượng nước sản sinh từ ngoài lãnh thổ là rất lớn.Nguồn nước từ các quốc gia thượng nguồn lưu vực sông Mê Công chiếm tới 90,1%, sông Hồng 38,5%, và sông Mã tới 27,1% tổng lượng nước chảy trên các con sông này.

Việc các quốc gia thượng nguồn xây dựng, hoặc gia tăng sử dụng nước, xây dựng các hồ thủy điện, công trình lấy nước, chuyển nước liên lưu vực đều tác động đến biến đổi dòng chảy về phía Việt Nam. Theo Ủy hội sông Mê Công quốc tế, khi các công trình thủy điện hoàn thành đi vào vận hành sẽ gây tác động bất lợi lớn đối với Việt Nam; sinh kế của người dân Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có thể giảm tới 97% vào năm 2040.

anh-chup-man-hinh-2024-02-15-luc-172726-1707992859.png
An ninh nguồn nước ở Việt Nam  (Ảnh Cục Quản lý tài nguyên nước)

Thách thức và giải pháp thay cho lời kết

Các nhà phân tích cho rằng, hiệu quả sử dụng nước thấp là do nước dùng nhiều cho sản xuất với chi phí cao. Thiếu chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng nước, đặc biệt là ở các cơ sở sản xuất với nông-lâm nghiệp và thủy-hải sản khiến giá thành sản phẩm cao, đã ảnh hưởng trực tiếp tới tính cạnh tranh của hàng hóa và lợi nhuận của cơ sở và người sản xuất. Việc sử dụng nước lãng phí, kém hiệu quả còn góp phần khiến an ninh nguồn nước bị thách thức ngày càng nghiêm trọng hơn.

Đe dọa an ninh nguồn nước còn do những nguyên nhân chủ quan. Đó là tình trạng ô nhiễm do xả thải bừa bãi vào các sông, suối, kênh, rạch; hoặc chôn lấp rác không theo đúng quy định và tình trạng vi phạm hành lang bảo vệ nguồn nước; làm biến đổi dòng chảy, gây suy giảm diện tích đất rừng và các nguồn sinh thủy.. BĐKH được cho là yếu tố khách quan, nhưng bản chất lại do hậu quả từ việc làm thiếu thân thiện của con người. Nhiệt độ Trái đất tăng lên dẫn tới băng vĩnh cửu tan chảy, nước biển dâng khiến tình trạng mặn xâm nhập trở nên nặng nề hơn; Rừng bị khai thác bừa bãi đã ảnh hưởng xấu đến cân bằng sinh thái, gây lũ lụt, sạt lở đất bất thường và làm giảm khả năng giữ nước...

Việt Nam là một trong 6 quốc gia chịu tác động nặng nề nhất của BĐKH. Kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra, nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m, khoảng 7,14% diện tích đất nông nghiệp, 28,67% diện tích đất ngập nước, 10,74% diện tích đô thị ở khu vực ĐBSCL và Đồng bằng sông Hồng sẽ bị nhấn chìm.

Không chỉ là những dự báo, tác động tiêu cực của BĐKH thực tế đã gây thiệt hại nặng nề cho nông nghiệp và nền kinh tế. Số liệu thống kê gần đây cho thấy, vụ đông xuân năm 2020 ở Việt Nam đã có 30,6 nghìn héc-ta lúa bị thiệt hại bởi hạn hán và nhiễm mặn. Vụ hè thu 2020 diện tích gieo trồng giảm 64,5 nghìn héc-ta, làm giảm 205,4 nghìn tấn sản lượng. Riêng ĐBSCL giảm 219,1 nghìn tấn.

Tác động của BĐKH ngày càng nặng nề, thách thức về an ninh nguồn nước ở Việt Nam cũng ngày càng phức tạp và khó lường, đòi hỏi phải xây dựng và triển khai đồng bộ rất nhiều chính sách, bảo đảm an ninh nguồn nước cả trước mắt và lâu dài...

Theo Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, ô nhiễm nguồn nước, tác động của biến đổi khí hậu và việc điều phối nước hiệu quả chưa cao, là một trong các thách thức lớn đang phải đối mặt. Ông nhấn mạnh "Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn, cần xây dựng định hướng, mục tiêu và các giải pháp để đảm bảo an ninh nguồn nước"

Thiếu nước do hệ thống trữ nước, điều tiết, phân phối phát huy hiệu quả chưa cao và nhu cầu sử dụng nước ngày một gia tăng, cần được hợp tác cùng cộng đồng khu vực và quốc tế để bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia, giảm bất đồng về khai thác và sử dụng bền vững nguồn nước.

Thành Ý