Triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam năm 2022

09/02/2022 10:27

Nongthonvaphattrien - Trước thềm năm mới Nhâm Dần, lần đầu tiên một kỳ họp bất thường được Quốc hội khóa XV tổ chức để xem xét, quyết định những vấn đề cấp bách đối với sự phát triển của đất nước.

Tạp chí điện tử Nông thôn và Phát triển tổng hợp một số ý kiến của một số đại biểu Quốc hội, chuyên gia, nhà quản lý, DN trả lời báo chí… tham góp thêm tiếng nói để có những chính sách và triển khai chính sách phục hồi kinh tế - xã hội phù hợp, phát huy hiệu quả trong bối cảnh Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp năm 2022.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Tâm (đoàn Quảng Bình): Tăng khả năng hấp thu tác động của chính sách

Đây là Nghị quyết mang tính lịch sử để hỗ trợ một cách kịp thời, tạo sự đột phá, nhằm thúc đẩy phục hồi nền kinh tế và tạo nền tảng thúc đẩy sự phát triển cho cả giai đoạn 2021 - 2025. Thời hạn áp dụng chương trình hỗ trợ hoàn toàn phù hợp, tiến hành trong thời hạn nhất định để tránh sự dàn trải, lãng phí. Tuy nhiên, liệu thời hạn 2 năm đã đủ để tiếp cận, hấp thu hết tác động của chính sách hay chưa đặc biệt là các nội dung liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản vì thủ tục tiến hành phải qua nhiều bước với các quy trình, thủ tục như hiện nay là khó khả thi. Vì vậy, cũng cần nghiên cứu, xem xét thêm quy định thời hạn phù hợp đối với từng gói dự án trong chương trình.

498-1644377120.jpg
Triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam năm 2022

Đối với nội dung các chính sách tiền tệ như giảm lãi suất ngân hàng, tôi tin rằng sẽ hỗ trợ cho các cá nhân, DN thích ứng với bối cảnh đại dịch. Với độ phủ rộng, đối tượng cho vay lớn bao gồm nhiều lĩnh vực như y tế, du lịch… các chính sách này được kỳ vọng hỗ trợ một cách tương đối toàn diện cho nền kinh tế phục hồi bền vững. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai cần cân nhắc lựa chọn những lĩnh vực thực sự chịu ảnh hưởng lớn của dịch bệnh để có chính sách lọc được những lĩnh vực chưa cần thiết hỗ trợ cấp bách, thậm chí nếu hỗ trợ sẽ tạo nên hiệu ứng ngược (bất động sản, chứng khoán…).

Về chính sách hỗ trợ đối với những lĩnh vực đặc thù như ngành y tế, giao thông vận tải, nông nghiệp sẽ là những bệ đỡ vững chắc để phục hồi kinh tế nhưng cũng cần có giải pháp để hỗ trợ nhiều hơn cho những ngành bị ảnh hưởng nghiêm trọng như ngành du lịch, ngành hàng không, đường sắt... Đối với lĩnh vực sản xuất, an sinh xã hội, tăng độ phủ cho các cá nhân chịu ảnh hưởng nhiều trong đại dịch như công nhân, người Việt Nam lao động tại nước ngoài về nước, các tiểu thương tại thành thị phải di cư... nhằm mục tiêu không có ai bị bỏ lại phía sau. Cụ thể, đối với nội dung cho vay giải quyết việc làm theo vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội hiện nay hộ nghèo, hộ cận nghèo đã ít dần qua hàng năm. Tuy nhiên, các hộ gia đình có thu nhập trung bình có nhu cầu rất lớn vay vốn, đặc biệt là đối tượng người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài. Chính vì thế, việc mở rộng đối tượng cho hộ có thu nhập ở mức trung bình được tiếp cận vay vốn ở Ngân hàng Chính sách xã hội nhằm giải quyết được nhu cầu việc làm cho đông đảo người dân. Xem đây như một động lực để phục hồi kinh tế.

Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME) Tô Hoài Nam: Tính toán cẩn trọng gói kích thích kinh tế

Việc Chính phủ và Quốc hội cân nhắc ban hành Nghị quyết về gói kích thích phát triển kinh tế - xã hội với quy mô 350.000 tỷ đồng là quyết sách đúng đắn. Gói kích thích này rất cần thiết cho nền kinh tế bởi nó bao hàm nhiều chức năng quan trọng, vừa khôi phục, tạo thị trường, qua đó tác động vào hoạt động sản xuất, kinh doanh để thúc đẩy nền kinh tế đi lên. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, cộng đồng DN Việt Nam vẫn rất khó khăn. Chẳng hạn như thị trường hiện nay rất cần kích cầu mua sắm nội địa nên gói kích thích này là giải pháp hết sức cần thiết và có ý nghĩa đối với DN.Hơn nữa, điều quan trọng nhất của Việt Nam đó là giữ được bình ổn kinh tế vĩ mô. Muốn giữ được bình ổn kinh tế vĩ mô thì chúng ta phải có giải pháp kích cầu thị trường như thế nào để không xảy ra lạm phát hay lặp lại câu chuyện lạm phát trong quá khứ. Do đó, gói kích thích cần được tính toán cẩn trọng, kỹ lưỡng về định mức gói hỗ trợ, từ đó tạo nguồn lực đầu tư chính xác hơn đối với đối tượng được thụ hưởng.

Mong muốn của DN nhỏ và vừa (NVV) là Chính phủ và Quốc hội cần nghiên cứu định lượng đầu tư mạnh vào các lĩnh vực: Giao thông, thủy lợi, nông nghiệp – nông thôn… Qua nghiên cứu về định lượng hỗ trợ và hiệu quả đầu tư, tôi cho rằng khi đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ tạo sự lan tỏa rất mạnh. Đặc biệt là hỗ trợ vào hạ tầng cơ bản của các lĩnh vực nêu trên, những DN nội địa, đặc biệt là khối DNNVV, thậm chí DN siêu nhỏ sẽ được thuận lợi hơn, hấp thụ nhiều hơn và có lợi cho nền kinh tế. Gói kích thích phải làm sao hỗ trợ nhiều nhất cho các DN trong nước là DNNVV để tạo đà phát triển. Ngoài định lượng hỗ trợ, gói kích thích cần có quy định rõ ràng, cụ thể hơn để các DNNVV có thể hấp thụ được. Mặt khác, khối DNNVV đang sử dụng, tạo công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động nên khi gói hỗ trợ kích cầu sản xuất, kinh doanh được các DN này hấp thụ còn góp phần quan trọng vào thị trường lao động việc làm và bảo đảm an sinh xã hội của đất nước. Tôi cũng kỳ vọng gói hỗ trợ sẽ tác động giải phóng sức lao động trong khu vực kinh tế tư nhân.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Như So (Ủy viên Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội): Nuôi dưỡng doanh nghiệp chính là chìa khóa

Năm 2021 ngành nông nghiệp đã phát huy vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, đóng góp 13,97% vào tốc độ tăng trưởng tổng giá trị tăng thêm của toàn ngành kinh tế. Tuy nhiên, ngành cũng đang gặp rất nhiều khó khăn do dịch bệnh, đặc biệt là vấn đề hàng loạt nông sản ách tắc tại các cửa khẩu trong thời gian qua. Do đó, cần nghiên cứu chính sách hỗ trợ lãi suất để đảm bảo tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, gia tăng xuất khẩu chính ngạch. Ngành nông nghiệp cần thiết phải nhận được tỷ trọng ưu đãi lãi suất cao hơn các nhóm ngành được hỗ trợ, tương xứng với vai trò là trụ đỡ của mình.

Đồng thời, lựa chọn đúng và trúng đối tượng trong giai đoạn phục hồi, dư địa chính sách dần thu hẹp, các chính sách hỗ trợ cần chọn lọc hơn, tập trung hơn, đặc biệt những DN lớn, có sức lan tỏa đến các khu vực khác trong nền kinh tế. Các DN hạt nhân từ các chuỗi cung ứng tạo điều kiện để tăng cầu lao động, hỗ trợ an sinh xã hội, đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động. Việc hỗ trợ nhà trọ, tiền sinh hoạt hàng tháng cho người lao động bị thất nghiệp chỉ là giải pháp tình thế, gốc rễ vẫn là bài toán việc làm, nuôi dưỡng DN chính là chìa khóa để giải quyết bài toán an sinh xã hội trong thời điểm này.

Đối với chính sách tiền tệ, thời gian qua Ngân hàng Nhà nước đã chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, góp phần tháo gỡ khó khăn cho DN, người dân. Tuy nhiên, hiệu quả của chính sách còn khiêm tốn, lãi suất cho vay mặc dù đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao. Công cụ dự trữ bắt buộc chưa phát huy hiệu quả. Tỷ lệ nợ xấu tiềm ẩn và thực chất là tăng cao. Đặc biệt lần này cần phải quy định cụ thể, quyết liệt hơn nữa nhằm khả năng hấp thụ chính sách. Ví dụ, theo tính toán chỉ cần 0,5% tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ giải phóng được số vốn khoảng 50.000 tỷ đồng để cho vay đối với nền kinh tế, chưa tính đến các chi phí tín dụng sẽ giảm xuống.

Đại biểu Phạm Văn Hòa (đoàn tỉnh Đồng Tháp): Một chính sách tổng thể sẽ phát huy hiệu quả

Thời gian qua Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ để phục hồi kinh tế, trợ cấp khó khăn cho các ngành, lĩnh vực, người bị ảnh hưởng nhưng ngần đó cũng chưa đủ để giải quyết được yêu cầu bức xúc trong tình hình hiện nay để phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh đất nước ta thích ứng và chung sống với Covid-19. Cho nên cần phải có chính sách tổng thể hơn bao gồm nhiều lĩnh vực, con người đáp ứng yêu cầu thực tiễn các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra. Với gói hỗ trợ này, Chính phủ đã vào cuộc kịp thời. Chính sách tài khóa và tiền tệ đầy ý nghĩa nhân văn này hỗ trợ người dân và DN, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, kiểm soát dịch bệnh và an dân.

Về chính sách tiếp tục miễn giảm thuế, lệ phí là phù hợp, góp phần tạo điều kiện cho DN tái hoạt động, giải quyết việc làm cho lao động, kích thích nhu cầu phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh là cần thiết, để ổn định cho các DN trong trạng thái bình thường mới. Tuy nhiên, cần có quy định cụ thể áp dụng đối tượng nào, DN nào và chỉ nên tập trung cho DNNVV, DN có nhiều lao động, hợp tác xã, các DN có sức lan tỏa rộng, nhằm tạo điều kiện kích thích hoạt động, tăng vốn đầu tư yên tâm sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, cũng cần quan tâm đến các loại hình sản xuất, kinh doanh khác như bất động sản, chứng khoán, các loại hình kinh doanh chưa thật sự cần thiết hiện nay để bù đắp các khoản chi phí thu thấp mà tăng thuế cho các đối tượng này.

Cùng với đó, việc chi trực tiếp từ ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển, chi cho công tác phòng, chống dịch, cải tạo, nâng cấp trang thiết bị, nhân lực cho ngành y tế là rất cấp thiết. Nên tập trung cho tuyến y tế ở cơ sở nhân lực và trang thiết bị, chính sách tăng thêm thu nhập cho nhân viên y tế ở tuyến đầu chống dịch, nhất là cơ sở điều trị Covid-19.

Liên quan đến chính sách hỗ trợ lãi suất, cần tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực ngành nghề có sức lan tỏa cao, lao động nhiều DNNVV, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, đặc biệt là các chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội, nhà ở, công nhân, cải tạo, xây dựng lại các nhà chung cư cũ ở các TP lớn. Quy định rõ về đối tượng, điều kiện hỗ trợ, có kiểm soát để tránh trục lợi chính sách, tuy nhiên cũng cần tránh thủ tục rườm rà, khó dễ cho đối tượng dẫn đến chậm giải ngân. 

Đại biểu Quốc hội Vũ Tiến Lộc (đoàn TP Hà Nội): Cần thêm những giải pháp phi tài chính

"Tâm thế vượt qua dịch bệnh" phải là tâm thế của chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Toàn bộ các chính sách phát triển của chúng ta theo hướng này. Kết cấu của các giải pháp trong Nghị quyết là phù hợp với khả năng hấp thụ của nền kinh tế và phù hợp với sức chịu đựng của hệ thống tài chính, tiền tệ của đất nước.

Trong bối cảnh hiện nay, dù chúng ta hướng tới mục tiêu phục hồi hay phát triển thì ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an toàn hệ thống vẫn là yếu tố nền tảng, là thành trì bất khả xâm phạm. Trong suốt thời gian 2 năm vừa qua, ngân sách Nhà nước cũng như chính sách tiền tệ đã có nhiều nỗ lực để có thể hỗ trợ cho nền kinh tế. Bây giờ dư địa chính sách không còn nhiều, đặc biệt dư địa trong chính sách ngân hàng. Trên thực tế hiện nay đang cho vay dưới chuẩn, khi cơ cấu lại nợ, không tăng nhóm nợ để tạo điều kiện cho DN tiếp cận nguồn vốn tín dụng, có nghĩa đang cho vay dưới chuẩn. Cho nên, vay dưới chuẩn có nghĩa là rủi ro về tín dụng, rủi ro về nợ xấu đang tăng lên.

Trong bối cảnh này, tôi nhất trí với quan điểm của Chính phủ là đưa ra những chính sách linh hoạt nhưng thận trọng. Tôi cũng nhất trí với việc tích hợp các chính sách tài khóa, tiền tệ để đưa ra một gói giải pháp hỗ trợ về lãi suất cho DN với lãi suất 2%, mức này tôi cho là phù hợp. Nếu chúng ta thực hiện được gói này sẽ có thể thúc đẩy được một dòng tín dụng đến hàng triệu tỷ đồng Việt Nam cho nền kinh tế và điều đó sẽ có tác động rất lớn đối với các DN. Quan trọng là dòng tiền này phải được chảy vào các DN, các lĩnh vực có tăng lực cạnh tranh nhưng đang gặp khó khăn tạm thời và có khả năng phục hồi nhanh. Việc đó sẽ quyết định thành bại của chính sách tín dụng.

Tuy nhiên, tôi cũng cho rằng gói giải pháp này chỉ mang ý nghĩa là hỗ trợ, đúng theo tên gọi của nó. Muốn gói hỗ trợ này đảm bảo thực hiện thành công phải thúc đẩy những biện pháp toàn diện, những giải pháp phi tài chính như biện pháp về mở cửa thị trường một cách kiên định theo lộ trình chủ động. Đồng thời, đẩy mạnh những cắt giảm thể chế, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh của DN và thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư. Cùng với đó, nhiều chương trình xúc tiến của các bộ, ngành, địa phương đang có nguồn cần đẩy mạnh trong giai đoạn này, để có thể hỗ trợ DN nâng cao năng lực cạnh tranh. Bởi năng lực hấp thụ của DN tùy thuộc rất lớn vào năng lực của DN và phụ thuộc vào các biện pháp hỗ trợ đó của Nhà nước. 

TS Cấn Văn Lực - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, Kinh tế trưởng BIDV: Đánh giá kỹ lưỡng tác động của gói hỗ trợ 

Tôi đánh giá cao về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội mà Chính phủ đề xuất. Chương trình có thiết kế chính sách sát hơn, trúng hơn nhu cầu của người dân và DN với 5 cấu phần rõ rệt, thậm chí có danh mục dự án khá cụ thể, chi tiết so với trước đây. Đáng chú ý, chính sách tài khoá là trụ cột có tổng quy mô 291.000 tỷ đồng, chiếm trên 80% gói hỗ trợ. Trong đó, hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách Nhà nước lên tới 240.000 tỷ đồng thay vì mờ nhạt chủ yếu chỉ giãn, hoãn các khoản thuế, phí như trước đây. Đáng quan tâm, gói hỗ trợ lãi suất khá tốt, hỗ trợ 2%/năm lãi suất thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại là 40.000 tỷ đồng trong 2 năm. Như vậy, sẽ lan tỏa ra khoảng 1 triệu tỷ đồng tín dụng được hỗ trợ, bao gồm cả tín dụng mới lẫn tín dụng cũ, chiếm khoảng 10% tổng dư nợ tín dụng.

Tuy nhiên, cần phân tích để thấy rõ hơn gói chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sẽ mang lại những hệ lụy gì, đánh giá tác động để kiểm soát rủi ro. Theo tôi, để triển khai gói hỗ trợ thành công, thứ nhất, phải tiếp tục rà soát kỹ hơn đối với những đối tượng nhận hỗ trợ.

Thứ hai, phải có một quy trình cực kỳ rõ ràng. Rút kinh nghiệm năm 2009 thời điểm đó, quy trình, quy phạm không có và triển khai rất dàn trải, lạm phát leo thang hay đầu tư chệch hướng vào chứng khoán, bất động sản rất phức tạp. Khi đó, các ngân hàng thương mại sẽ tự tin cho vay. Mặc dù khi triển khai sẽ có giám sát, kiểm tra đánh giá nhưng có lẽ cũng phải tính phương án xấu nhất, sẽ có một số sai sót nhỏ nhất định, tức là một vài khoản vay, một vài trường hợp nhầm đối tượng. Nhưng phải tính toàn cục, không vì một vài khoản vay, một vài đối tượng lại cho rằng chương trình không thành công.

Thứ ba, một số cấu phần phải phân định rõ hơn, đúng bản chất hơn. Chẳng hạn, cấu phần sử dụng 46.000 tỷ đồng để nhập khẩu vaccine, thuốc điều trị và thiết bị, vật tư y tế phục vụ phòng, chống dịch, được đưa vào chính sách tiền tệ là chưa chính xác. Ngoài ra, cần phải đánh giá kỹ lưỡng tác động của gói hỗ trợ với tăng trưởng GDP trong hai năm 2022 – 2023 hay tác động tới nghĩa vụ trả nợ và lạm phát chỉ trong hai năm 2022 – 2023 khi Chính phủ đang tính toán cho cả giai đoạn 2021 – 2025. 

Như nhiều ý kiến đã nhận định, nền kinh tế vẫn còn đối diện với nhiều khó khăn, thách thức khi tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, khó lường. Tăng trưởng kinh tế cả năm 2021 ước chỉ đạt 2,58%, thấp nhất trong 10 năm trở lại đây và thấp hơn rất nhiều mục tiêu kế hoạch. Rủi ro tín dụng, nguy cơ nợ xấu tiếp tục gia tăng; hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN gặp nhiều khó khăn. Nếu không có chính sách hỗ trợ kịp thời, sẽ lỡ nhịp với kinh tế thế giới, ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội không chỉ trong năm 2022 mà còn đối với cả nhiệm kỳ giai đoạn 2021 - 2025. Nghị quyết được Kỳ họp bất thường lần thứ nhất Quốc hội khóa XV thông qua đã bổ sung các chính sách ngoài khung khổ chính sách tài chính, tiền tệ đã được Quốc hội quyết định trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; kế hoạch tài chính, kế hoạch vay và trả nợ công, kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm giai đoạn 2021 - 2025.
Đây là gói chính sách được DN và người dân rất kỳ vọng, mong mỏi. Như các đại biểu Quốc hội phát biểu tại nghị trường, các chuyên gia đã nhận định, Chính phủ đã thể hiện rõ sự vào cuộc kịp thời trong việc hỗ trợ người dân và DN. Tuy nhiên, vấn đề cần đặc biệt lưu ý là khả năng hấp thụ chính sách của nền kinh tế, của DN. Theo đó, để các chính sách tài khóa, tiền tệ phát huy hiệu quả cao nhất, phải thúc đẩy thực hiện các giải pháp toàn diện, các giải pháp phi tài chính, mở cửa thị trường kiên định theo lộ trình chủ động, đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh của DN và thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư...

 

Tổng hợp
Bạn đang đọc bài viết "Triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam năm 2022" tại chuyên mục Nông thôn mới. Hotline: 0846460404 - Liên hệ Quảng cáo: 0912563309