Kỷ niệm nhỏ với bác Lợi "nháy" - "Từ điển sống của Bộ Ngoại giao" một thời

Trong bài giới thiệu cuốn sách “Ngôi nhà xưa yêu dấu” của Tác giả Dương Việt Tiến, có đoạn nhắc đến nhóm Văn hóa Cứu quốc gồm các ông: Trần Quốc Hương (Mười Hương), Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Văn Lợi, Nguyễn Đình Thi, Thôi Hữu, Hoàng Đạo Thúy, Nguyễn Hữu Đang… từng hoạt động ở ngôi nhà số 8, ngõ 120 phố Vĩnh Tuy, nay có địa chỉ mới là số nhà 96 Nguyễn Văn Viên, phường Vĩnh Tuy, Thành phố Hà Nội đã được Ủy ban Nhân dân Thành phố gắn biển di tích lịch sử…
dt1-hung1ab-1754449220.jpg
 

Lưu Văn Lợi, hay bác Lợi “nháy” (người có tật nháy mắt liên tục khi nói chuyện) – Nhân vật trong bài viết này, chính là Nhà ngoại giao nổi tiếng, Đại tá Lưu Văn Lợi, anh trai của bà Lưu Thị Hương – vợ của ông Dương Quang Trị, chủ của “Ngôi nhà xưa yêu dấu” - Tên cuốn sách bút ký lịch sử của Tác giả Dương Việt Tiến và cũng là tên ca khúc do “Soldier’s Heart”.M thực hiện, từ thơ Đặng Vương Hưng.

Nhiều bạn đọc đã biết đến ông Lưu Văn Lợi từng làm Chánh Văn phòng Bộ Ngoại giao, Văn thư Đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng ban Biên giới Chính phủ… Nhưng với tôi, ấn tượng nhất về ông là một Nhà báo, Nhà nghiên cứu lịch sử, Nhà ngôn ngữ chính trị và một Chuyên gia đàm phán, để ký kết các Hiệp định hòa bình, kết thúc các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sinh thời, bác Lưu Văn Lợi luôn được các đồng nghiệp tin cậy là người thẩm định cuối cùng các văn bản ngoại giao. Mọi người khâm phục gọi bác là “Từ điển sống của Bộ Ngoại giao”.

dt2huwngbc-1754449323.jpg
 

Cuối năm 1990, khi mới từ Quân khu I chuyển ngành về Nhà xuất bản Công an Nhân dân, tôi may mắn và vinh dự được Nhà văn Trần Diễn (hồi đó là Phó Giám đốc – Phó Tổng Biên tập) giới thiệu với Nhà ngoại giao Lưu Văn Lợi để tổ chức bản thảo và biên tập cuốn sách “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris”. Bản thảo này do 2 tác giả đứng tên chung là Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ. Vì mới tập tọe vào nghề biên tập, tôi đã xin phép được gọi 2 tác giả đều thuộc diện “lão làng về câu chữ” là “bác” và xưng “cháu” để vừa làm, vừa học việc. Và 2 bác đã chấp nhận, chắc vì thương cậu lính trẻ lớ ngớ mới từ quê ra tỉnh, từ rừng về phố, chập chững vào nghề như tôi.

Khoảng một tháng trời, lịch trình làm việc của tôi cứ đều đặn hằng ngày, là đạp xe từ trụ sở Nhà xuất bản ở 167 Mai Hắc Đế, đến số 9 phố Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Đấy là một ngôi nhà nhỏ cũ kỹ, sát cây xăng, cách Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 không xa. Tôi gửi xe rồi theo cầu tháng leo lên tầng. Bác Lợi đã đợi tôi trong một căn phòng chật kín những sách là sách. Đó là một người đàn ông thấp đậm, thông minh và hóm hỉnh. Khi nói chuyện, mắt bác cứ nhấp nháy liên tục, và rất hay chen thêm từ tiếng Pháp, hoặc tiếng Anh. Làm việc với bác Lợi xong, cách một đôi hôm, tôi lại đạp xe đến làm việc với bác Nguyễn Anh Vũ, nhà tập thể ở đường Lê Duẩn, đoạn giữa ga Hà Nội và đường Nguyễn Du. Chúng tôi đã căng mắt đọc lại từng trang bản thảo viết tay, rồi gõ máy chữ. Đoạn nào không hiểu, thì hỏi lại, chữ nước ngoài nào chưa biết, thì tra từ điển…

Buổi trưa, thỉnh thoảng tôi thường được bác Lợi, hoặc bác Vũ thay nhau đưa ra phố ăn cơm bụi, hoặc ăn phở. Gặp hôm thời tiết mưa nắng thất thường, thì chúng tôi úp tô mì tôm cũng xong bữa. Tôi nhớ là bản thảo cuốn sách đã xử lý biên tập xong, nhưng chưa được in ngay, vì có nội dung và đề tài nhạy cảm về ngoại giao và chính trị, nên phải đưa đi thẩm định qua rất nhiều các cá nhân và cơ quan có trách nhiệm. Rồi một thời gian dài sau, cuốn sách cũng được “trình làng”. Tác phẩm chứa nhiều câu chuyện và những tư liệu thuộc dạng “thâm cung bí sử”, lần đầu công bố, nên bạn đọc háo hức đón nhận. Sách in lần đầu với số lượng hạn chế, nên phải “phân phối”. Bù lại, sau này “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris” đã được tái bản nhiều lần. Chỉ tiếc là bác Nguyễn Anh Vũ mất rất sớm. Còn bác Lưu Văn Lợi thì sống thọ tới 103 tuổi!

Sau này, tìm hiểu, tôi được biết bác Lưu Văn Lợi sinh năm Quý Sửu - 1913 ở Gia Lâm, nhưng sớm phải chịu cảnh mồ côi cả cha và mẹ trước khi cắp sách tới trường, nên tuổi học trò của bác gắn với trường Trung học Bonal (Hải Phòng). Năm 1932, tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học, bác Lợi bắt đầu cuộc đời của một công chức nhà Đoan (như Thuế quan, Hải quan bây giờ). Nhưng ngọn lửa yêu nước trong tim đã thôi thúc bác tham gia hoạt động trong phong trào truyền bá quốc ngữ ở Phúc Yên. Bác Lưu Văn Lợi được gặp đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), được tuyên truyền về Việt Minh, về Đề cương Văn hoá Việt Nam và tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc. Từ đó, bác Lợi hăng say trong nhóm truyền bá quốc ngữ Phúc Yên cho tới năm 1945, chuyển về Hà Nội, lại vẫn làm ở nhà Đoan; nhưng đó chỉ là vỏ bọc an toàn cho những người đồng chí dễ dàng hoạt động Cách mạng. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, bác đã cùng các ông Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Hữu Đang làm báo Tiền Phong, cơ quan ngôn luận của Hội Văn hóa Cứu quốc. Ý định của Hội muốn tờ báo ra sớm, nhưng trong điều kiện in ấn khó khăn, anh em trong Hội bận rộn những ngày nước rút, chạy đua với thời gian, chuẩn bị cho khởi nghĩa, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng được cử đi dự Hội nghị Tân Trào, nên đến tháng 11/1945 báo Tiền Phong mới ra số 1 ngay tại “Ngôi nhà xưa yếu dấu” trong sách của Tác giả Dương Việt Tiến.

Sau khởi nghĩa tháng 8/1945, bác Lưu Văn Lợi được bổ nhiệm làm Giám đốc Sở Kiểm duyệt Bắc bộ. Tháng 9/1945, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhóm biên soạn gồm Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu và Lưu Văn Lợi làm nhiệm vụ sưu tầm và biên soạn gấp cuốn sách bằng tiếng Pháp vạch trần tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Tháng 11/1945, cuốn sách ra đời dưới danh nghĩa sách của Hội Văn hóa Cứu quốc, với tên “Bằng chứng và tư liệu Pháp về chính sách thực dân của Pháp ở Việt Nam”. Đây là cuốn sách ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó, bản dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt được Hội Văn hóa Cứu quốc xuất bản dưới tiều đề “Tám mươi năm tội ác”. Năm 1955, Nhà xuất bản Ngoại văn tái bản cuốn sách bằng tiếng Pháp.

Cũng trong thời gian này, Đảng ta chủ trương ra một tờ báo tiếng Pháp để tuyên truyền đối ngoại. Bác Lưu Văn Lợi được cử làm Chủ nhiệm, kiêm luôn Chủ bút. Nhưng đáng tiếc vì không có ngân sách cho báo, nên sẽ phải in chịu và cán bộ thì không có lương biên tập. Báo La Republique ra Số 1 ngày 18/10/1945. Nhớ lại những ngày làm báo trong điều kiện hết sức thiếu thốn đó, bác đã viết trong hồi ký “Gió bụi đường hoa”: “Khi in số đầu và nhiều số sau này, tôi ngủ luôn trên bàn chờ bài để sửa. Thông thường 11, 12 giờ đêm tôi mới về nhà ở 40 Quang Trung; có hôm mệt quá ngủ luôn ở nhà in. Khi đó tôi mới 32 tuổi, sức khỏe nghị lực có thừa nên có thể đồng thời đảm đương cả mấy việc: kiểm duyệt, viết bài, chuẩn bị từng số báo, lên nhà in. Làm việc hầu như không biết mệt”.

Là tờ báo tiếng Pháp duy nhất của chính quyền dân chủ nhân dân, La République đã nhanh chóng trở thành đường dây liên lạc với đảng viên Đảng Xã hội Pháp ở Hà Nội và nhóm văn hoá mác xít của những người Pháp tiến bộ ở Sài Gòn. Sau khi Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 được ký kết, để nội dung tờ báo phù hợp với tình hình mới, báo đổi tên là Le Peuple. Số 1 của báo ra ngày 7/4/1946. Nhưng chỉ đến tháng 11/1946, báo Le Peuple phải ra số cuối cùng để gấp rút chuẩn bị kháng chiến toàn quốc.

Năm 1950, bác Lưu Văn Lợi được giao trọng trách làm Giám đốc Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân và làm Thư ký Toà soạn báo Quân đội Nhân dân. Sau chiến thắng Điện Biên phủ, bác lại được Tổng Quân ủy giao nhiệm vụ tiếp nhận thương binh do Pháp trao trả. Với bí danh “Thiếu tá Nguyễn Văn Lê”, ngày 11/6/1954, bác Lợi đại diện cho phía Quân đội Nhân dân Việt Nam làm việc với phía Pháp, thiếu tá James về những vấn đề liên quan đến việc trao 267 thương bệnh binh cho Việt Nam, đình chỉ mọi hoạt động quân sự trên dải đất rộng 200 m ở khu vực Phủ LạngThương - Cầu Giỏ, đảm bảo an toàn cho họ. Ngày 16/6/1954, cuộc trao trả đã hoàn thành tốt đẹp, bác làm nhiệm vụ giao dịch với đoàn Pháp và tiếp phóng viên nước ngoài đến chụp ảnh và đưa tin.

Đặc biệt, bác Lưu Văn Lợi được cử làm phiên dịch cho Đoàn đại biểu của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Hội nghị Trung Giã và sau Hội nghị này, đã được Bộ Quốc phòng tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba vì những đóng góp xuất sắc cho hội nghị.

Pháp chưa đi, thì Mỹ đã đến. Bác Lưu Văn Lợi được biệt phái chuyển sang Bộ Ngoại giao, vừa làm Chánh Văn phòng Bộ, vừa phụ trách Văn thư Đối ngoại cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chuyện bác Lợi bị nháy mắt là do “bệnh nghề nghiệp”: Năm 1961, bác Lưu Văn Lợi được cử tham gia đoàn đàm phán của Chính phủ ta tại Hội nghị Giơnevơ về Lào. Hội nghị diễn ra khá căng thẳng và phức tạp. Đoàn Việt Nam vừa phải đảm đương nhiệm vụ của mình, vừa có trách nhiệm giúp đỡ đoàn bạn Lào trong một số vấn đề về chuyên môn và nghiệp vụ. Suốt mấy tháng ròng, hôm nào bác Lợi cũng phải thức đêm để viết tham luận, duyệt lại các bản dịch ra tiếng Pháp, rà soát các văn bản trước khi phát trong Hội nghị, lại cả giúp các đồng chí Lào làm tham luận... Công việc căng thẳng, làm việc đêm thiếu sáng, khiến bác bị giảm sút thị lực, mắt cứ nháy liên tục, cho đến cuối đời...

Đặc biệt, bác Lưu Văn Lợi được vinh dự tham gia các cuộc gặp gỡ cả bí mật và đàm phán công khai, giữa Mỹ với Việt Nam tại thủ đô Paris Pháp, từ 13/5/1968, đến ngày 27/1/1973. Đây cũng là thời kỳ bác đã đem tất cả tài trí đang ở độ chín vào cuộc đấu trí căng thẳng nhất, kéo dài nhất, gay go nhất trong lịch sử đấu tranh ngoại giao của dân tộc ta. Bác Lợi đã góp phần không nhỏ vào sự thành công và Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Nhiều kỷ niệm không quên đã được bác viết trong cuốn sách “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris”, cũng là cuốn sách “vào nghề” biên tập và xuất bản của tôi từ hơn 30 năm trước.

Chuyện về bác Lưu Văn Lợi thì còn dài lắm, ví dụ như hồi bác làm Phó trưởng Đoàn Đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, tham gia Ủy ban liên hợp quân sự bốn bên để thi hành Hiệp định Paris, đấu trí với Chính quyền Sài Gòn tại Trại Davis, đã thành giai thoại. Hay chuyện bác Lợi viết và xuất bản hồi ký khi đã ở tuổi 95. Ai quan tâm, thì tìm đọc “Gió bụi đường hoa”. Không phải ngẫu nhiên, mà bác Lưu Văn Lợi đã được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cao quý. Gần đây, Đại sứ Nguyễn Đình Bin – Nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ ngoại giao, từng công khai đề nghị việc phong tặng danh hiệu Anh hùng cho 2 đại diện xuất sắc của ngành Ngoại giao là Nguyễn Thị Bình và Lưu Văn Lợi...

Nhưng tôi vẫn nhớ mãi chi tiết này, đã được bác Lưu Văn Lợi trực tiếp kể cho nghe, trong một lần vui chuyện khi cùng ăn trưa: Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Henry Kissinger - Cố vấn đặc biệt về An ninh quốc gia của Nhà trắng tại Hội nghị này, đã hài hước nói đại ý rằng: "Tôi đề nghị Chính phủ Việt Nam nên đúc tượng ngài Lưu (Văn Lợi) để vinh danh ông ấy, vì công lao đã đóng góp cho các câu chữ trong văn bản Hiệp định, được tốt đẹp cho cả Việt Nam và Mỹ. Nhưng cũng xin lưu ý là: cần thiết kế làm sao, để cho bức tượng ấy phải biết… nháy mắt, thì mới đúng là ngài Lưu Văn Lợi!".

Và thế là tất cả cùng cười vang, thật sảng khoái.

Hà Nội, 6/8/2025

TTNL