Giáo sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn, cả cuộc đời gắn bó với sự nghiệp nghiên cứu phát triển Nông nghiệp, Nông thôn và Nông dân Việt Nam

24/09/2022 07:46

Vừa qua, Nhà xuất bản Dân trí phối hợp cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vừa xuất bản cuốn sách "Đào Thế Tuấn - Nhà Khoa học Nông nghiệp uyên bác". Tạp chí Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam xin giới thiệu bài viết “Giáo sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn, cả cuộc đời gắn bó với sự nghiệp nghiên cứu phát triển Nông nghiệp, Nông thôn và Nông dân Việt Nam" của tác giả TS. Lê Thành Ý nguyên Trưởng ban Chính sách Nông nghiệp, Viện Quản lý Kinh tế Trung ương trong cuốn sách quý nói trên

Nhà khoa học nông nghiệp uyên bác của đất nước, GS.VS. Đào Thế Tuấn thường được nhắc đến nhiều hơn ở  khía cạnh kỹ thuật nông học mà ít được lưu ý tới đóng góp lớn lao, mang ý nghĩa mở đường cho sự phát triển toàn diện kinh tế xã hội và xây dựng thể chế xã hội ở nông thôn.

Về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta, sinh thời GS.VS Đào Thế Tuấn từng coi đó chính là cốt lõi của sự phát triển bền vững. Ông cho rằng, nếu công cuộc đổi mới dẫn đến phân hoá xã hội, tăng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn thì sự phát triển sẽ không thực sự bền vững. Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là ba vấn đề khác nhau, song nếu không cùng giải quyết một cách đồng bộ thì sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước sẽ không vững vàng.

Ở nước ta, có quan niệm cho rằng phát triển nông nghiệp tốt thì phát triển nông thôn cũng tốt, vì nông nghiệp đi lên sẽ kéo theo nông thôn phát triển. Thực tế, không phải như vậy. “Nông nghiệp là ngành sản xuất còn nông thôn là lãnh thổ”.  Hầu như ở tất cả các  Bộ, ngành ở nước ta đều có bộ phận chuyên trách về nông thôn. Nông nghiệp và nông thôn là những phạm trù khác biệt, bởi Nông nghiệp là một ngành kinh tế, còn Nông thôn là những vùng lãnh thổ khác với đô thị. Nông thôn không chỉ có nông nghiệp và mục tiêu của phát triển nông thôn là phát triển toàn diện cả khu vực, chứ không phải chỉ là phát triển nông nghiệp. Trong thực tế, ở nước ta, việc phát triển nông thôn thường tập trung vào nâng cao năng suất nông nghiệp, mang tính chất thuần túy kỹ thuật, chưa chú ý đến sinh kế bền vững; còn nông dân lại là bộ phận yếu thế nhất trong các tầng lớp nhân dân.

tt-1663729208.jpg
Cuốn sách quý về Giáo sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn

Ngay từ những năm 1980, GS.VS. Đào Thế Tuấn đã là người đầu tiên ở nước ta vận dụng quan điểm hiện đại vào nghiên cứu hệ thống nông nghiệp, và ông đã nhận ra rằng: “Nếu hệ thống nông nghiệp chỉ bao gồm những thành phần tự nhiên và kỹ thuật thì chưa đủ, vì trong thực tế, thành phần kinh tế xã hội mới là yếu  tố có ý nghĩa quyết định sự phát triển của hệ thống”.

Hệ thống nông nghiệp - ý tưởng mở đầu cho nghiên cứu nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong phát triển kinh tế - xã hội

Từ cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu, GS.VS Đào Thế Tuấn đã bắt đầu từ nghiên cứu hệ thống ruộng lúa, tiến lên nghiên cứu hệ thống cây trồng, rồi hệ thống nông nghiệp bao gồm cả chăn nuôi và khu vực dân cư của hộ nông dân. Để phát triển theo định hướng này, đầu thập niên 1980, ông đã hình thành Nhóm Nghiên cứu là tiền thân của Bộ môn Toán máy tính của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. Nhớ lại những ngày gặp ông ở đây, tôi không thể quên được lời tâm sự và cũng là kỳ vọng của ông về việc kết hợp giữa nghiên cứu với thực tế kinh tế xã hội. Qua đó, có thể gắn kết mô hình nông nghiệp với mô hình tổng thể và những nhân tố phát triển kinh tế - xã hội khác.

Tham gia Tổ Xây dựng Chiến lược Phát triển Kinh tế Đất nước do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì, hợp tác cùng Viện Lúa Quốc tế (IRRI) trong nghiên cứu hệ thống nông trại và Chương trình Hệ thống Nông nghiệp Đồng bằng Sông Hồng, hợp tác với Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Pháp, ông đã rút ra những hạn chế của các nghiên cứu chuyên sâu về kỹ thuật.

Sau chuyến đi nghiên cứu ở Châu Âu và Liên Xô  vào cuối năm 1988, trở về ông đã thành lập Bộ môn Hệ thống Nông nghiệp trong Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, nhằm kết hợp nghiên cứu kỹ thuật với kinh tế xã hội. Đây là bộ môn nghiên cứu đa ngành đầu tiên của Việt Nam, có nhiệm vụ nghiên cứu về thể chế xã hội nông thôn, nhất là đối với kinh tế hộ nông dân.

Cùng với hoạt động nghiên cứu kinh tế xã hội nông thôn thực hiện ở Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam; nửa đầu thập niên 1990, trên cương vị Phó Chủ nhiệm Chương trình Phát triển Kinh tế Xã hội Nông thôn Việt Nam  KX-08, ông đã mở rộng nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội ra nhiều vùng, nhằm xác lập và đề xuất những giải pháp về tổ chức nông dân và hợp tác xã kiểu mới, cũng như chính sách nhằm thúc đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức này. Từ thực tế hoạt động của Bộ môn Hệ thống Nông nghiệp và các đề tài thực hiện trong chương trình KX-08, ông đã rút ra:

- Khi sản xuất nông nghiệp trở lại với kinh tế hộ nông dân, vấn đề cấp thiết đặt ra là chuyển từ nền nông nghiệp tự cấp tự túc sang nền sản xuất nông sản hàng hóa. Trước đòi hỏi phải thực nghiệm rộng rãi ở các vùng sinh thái khác nhau những công cụ thúc đẩy, tập trung vào hệ thống tín dụng nhỏ do nông dân tự quản lý; hệ thống tự quản lý nước của nông dân. Đặc biệt là những HTX chuyên ngành, những hệ thống canh tác phù hợp với các vùng sinh thái khác nhau. Đểgiải quyết tốt khó khăn của hệ thống các ngành hàng nông sản, ông đã mở rộng hoạt động nghiên cứu, khảo sát của Bộ môn Hệ thống Nông nghiệp và các đề tài nghiên cứu, thuộc Chương trình KX-08 ra nhiều vùng trong cả nước và đã mang lại những kết quả thiết thực. Một vấn đề lớn đặt ra là thể chế tổ chức giúp nông dân chuyển từ kinh tế tự cấp, tự túc sang kinh tế hàng hóa, quản lý chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đây là những nội dung rất thiết thực và cụ thể, mà ông còn tiếp tục làm sau này với sự quan tâm trong hoạt động quản lý nhà nước, ở thời kỳ hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.

- Gắn bó với đời sống nông dân từ thời kỳ đầu của quá trình CNH - HĐH đất nước, ông thấu hiểu những người nông dân bỏ làng ra đô thị để kiếm việc làm trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Trụ lại ở nông thôn là những hộ am hiểu về nghề nông, họ thuê lại ruộng đất của những người bỏ ra thành phố để tích luỹ thành những trang trại gia đình; nhờ đó, nâng cao được thu nhập và đảm bảo sinh kế vững vàng hơn. Trong cuốn: “Kinh tế hộ nông dân” của ông được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1997; ông đã xác định, kinh tế hộ nông dân không chỉ quan trọng trong “Thời kỳ Khoán 10”, mà còn quan trọng trong cả hiện tại và tương lai.

- Theo giáo sư Đào Thế Tuấn, con đường đúng đắn đưa nông thôn nước ta tiến lên, không phải là kêu gọi nhiều doanh nghiệp ngoài ngành nông nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, bỏ ra nhiều tiền của mua lại ruộng đất của nông dân để mở ra những trang trại lớn, mướn người nông dân không còn đất làm thuê; mà cần giúp các hộ thạo việc, giỏi nghề, am tường về nông nghiệp vươn lên mở mang nông trại tự mình canh tác. Đồng thời, cùng với tạo việc làm ngoài nông nghiệp ở nông thôn cho nông dân nghèo thiếu đất sản xuất nông nghiệp, cũng cần  giúp họ di dân hợp pháp ra thành phố.

- Vào những năm đầu thập niên 2010, ông nhận thấy công cuộc Đổi mới ở nước ta thành công nhờ vào việc quay lại nền kinh tế hộ nông dân và kinh tế thị trường đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới của quá trình CNH - HĐH đất nước. Trong giai đoạn này nông nghiệp, nông dân và nông thôn giữ một vai trò rất quan trọng; vì đây là nguồn cung cấp lao động chính, và cũng là thị trường chủ yếu của ngành công nghiệp.

- Kinh nghiệm từ những nước đã công nghiệp hóa cho thấy, vai trò của nông nghiệp ngày càng giảm sút. Một số nước cố phát triển nông nghiệp, nhưng khó có thể giữ vững an ninh lương thực; ngày càng phải nhập khẩu nhiều hơn, tiếp tục gặp nhiều khó khăn, nhất là ở các vùng đất ít, đông dân. Tuy nhiên, việc thiếu chú ý phát triển nông nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hoá đã khiến nhiều nước trả giá rất đắt, bằng việc phải hỗ trợ cho nông nghiệp rất nhiều.

Ông từng tâm sự, cuộc đời ông gắn bó với nông dân và nông thôn. Những năm chiến tranh đế quốc Mỹ ném bom hủy diệt miền Bắc; ông được cử về Nghệ An nhiều năm cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc với nông dân; để hướng dẫn họ xây dựng hợp tác xã dưới bom đạn Mỹ. Những năm gian nan, vất vả và nguy hiểm ấy đã giúp ông thấu hiểu nguyện vọng sâu xa, thầm kín của nông dân đối với ruộng đất. Nhờ vậy, những vấn đề ông lựa chọn trong nghiên cứu đều là những chủ đề rất thiết thực với ruộng đồng, và nhất là phản ánh được những đòi hỏi của kinh tế xã hội nông thôn; đặt ra để dốc lòng nghiên cứu, tránh viển vông, phù phiếm.

Quá trình đổi mới nông nghiệp và phát triển nông thôn nước ta thường tập trung nặng về kỹ thuật mà chưa chú ý đúng mức đến sinh kế bền vững của người nông dân. Tuy nhiên, ông luôn khẳng định, các chương trình phát triển nông thôn phải mang tính tổng hợp, không chỉ tập trung vào phát triển nông nghiệp, mà phải phát triển một nền kinh tế nông thôn toàn diện, có sự tham gia của quần chúng và chú ý hơn đến sinh kế của nông dân. Trong quản lý kinh tế xã hội của ngành nông nghiệp - nông thôn, ông từng nhận xét: Bộ Nông nghiệp được giao thêm nhiệm vụ phát triển nông thôn, nhưng thật ra, trong lĩnh vực này, một mình Bộ Nông nghiệp không thể làm nổi vì đó là những công việc phải do nhiều bộ, ngành khác cùng làm.

Khi nghiên cứu về nông dân trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn, ông đã nhận ra nông dân hiện là bộ phận yếu thế nhất trong các tầng lớp nhân dân; họ không có quyền mặc cả trên thị trường, không được tham gia quyết định giá cả nông sản và gánh chịu hậu quả của thương mại không công bằng. Do quyền lợi không được bảo vệ, nông dân bị thiếu chủ quyền, mất đất mà chẳng có ai bênh vực. cơ

Thể chế và tổ chức hợp tác của nông dân, đề xuất khởi đầu trong giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn Việt Nam

GS.VS. Đào Thế Tuấn nhận định, cuộc cải cách kinh tế lần này thực chất là bước tiếp nối của việc thay đổi thể chế, để tìm kiếm những giải pháp hiệu quả hơn nhằm tạo thuận lợi để phát triển sức sản xuất. Ông cho rằng, thể chế kinh tế tập thể trong thập niên 1960 và 1970 đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tế, kinh tế hộ nông dân vẫn tồn tại và đóng góp không nhỏ vào phát triển nông nghiệp ở giai đoạn này. Chỉ thị 100 với cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, về thực chất là đưa ruộng đất trở lại cho hộ nông dân, gắn với kết quả lao động mà họ đầu tư vào sản xuất. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Đảng CSVN công nhận hộ nông dân là đơn vị tự chủ trong sản xuất kinh doanh, về thực chất là đưa lại cho hộ nông dân quyền quyết định sử dụng vốn và lao động đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Cùng với những thể chế mới trong các Chỉ thị Nghị quyết của Đảng, Luật Đất đai năm 1993 giao đất lâu dài cho nông dân và khẳng định hộ nông dân sẽ là động lực để phát triển sản xuất nông nghiệp.

Những thể chế mới mở đầu cho giai đoạn này, mặc dù chưa hoàn chỉnh nhưng đã phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên, nhiều dịch vụ ở nông thôn do Nhà nước đảm nhận chậm phát huy tác dụng, còn nhiều lúng túng, nhất là trong hoạt động chế biến và thủy nông. Giáo sư cho rằng, nông thôn nước ta còn trong tình trạng khủng hoảng về thể chế, cần có quan điểm thống nhất cả về lý luận và thực tiễn để tháo gỡ,  góp phần vào đổi mới và phát triển mạnh mẽ kinh tế xã hội nông thôn. Để làm việc này, rất cần nghiên cứu tham khảo lý luận kinh tế học thể chế và hợp tác hóa. Theo hướng nghiên cứu này, ông đã cùng cộng sự đề xuất nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới thể chế và hợp tác hóa nông nghiệp.

Về vấn đề thể chế và hợp tác hóa

Theo Giáo sư, sự phát triển kinh tế hộ nông dân chỉ có thể thực hiện tốt khi có môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi, mà nhân tố quan trọng của thể chế lại được biểu hiện thông qua các tổ chức kinh tế cơ sở. Trong nền kinh tế tập thể trước đây, thể chế biểu hiện qua chế độ kế hoạch hóa tập trung. Ngày nay với nền kinh tế thị trường, lấy hộ nông dân là cơ sở, thì đây là vấn đề cần được giải quyết cả về lý luận và thực tiễn.

Thể chế là phương tiện để đảm bảo hoạt động tập thể, giải quyết xung đột về quyền lợi giữa cá nhân và tập thể. Các thể chế dù mang tính chất thị trường hay không, đều cung cấp một dịch vụ để đảm bảo tránh sự không chắc chắn, hoặc tăng lợi ích cho mỗi cá nhân. Dịch vụ thể chế có thể đạt với một chi phí nhất định gọi là “chi phí trao đổi”. Đây là tiêu chuẩn để lựa chọn giữa những sắp xếp thể chế cạnh tranh trong xã hội. Nếu lợi ích do thể chế mới mang lại lớn hơn chi phí để thay đổi, thì sẽ có sự thay đổi. Sự thay đổi thể chế thị trường cần các hành động tập thể, sau khi được chấp nhận thì thể chế mới trở thành một hàng hóa cộng đồng.

Trong xác định thể chế, Nhà nước giữ vai trò quan trọng. Trong quá trình phát triển, nhiều thể chế cũ trở thành lạc hậu, đòi hỏi phải xây dựng các thể chế mới. Tính hiệu quả quyết định sự phát triển thể chế, cũng có khi sự thay đổi thể chế lại bị cản trở, do thiểu số có quyền lợi gắn liền với thể chế cũ hoặc do bảo thủ. Tuy nhiên, về mặt kinh tế, sự thay đổi thể chế đều dựa trên cơ sở tính toán chi phí và lợi ích mang lại. Cũng theo giáo sư, có 3 loại thể chế đó là thể chế Nhà nước, thể chế thị trường và thể chế tổ chức dân sự, hoạt động theo 3 kiểu lợi ích khác nhau.

Từ những kết quả nghiên cứu khảo sát, những công trình nghiên cứu của giáo sư cũng đã chỉ ra: Khác với doanh nghiệp, mục tiêu của HTX không phải là lợi nhuận mà nhằm vào gia tăng thu nhập cho nông dân là thành viên. Thắng lợi của HTX không đo bằng lãi mà bằng thu nhập của xã viên. HTX theo đuổi mục đích giảm chi phí dịch vụ, phục vụ chứ không nhằm vào đạt lợi nhuận cao nhất. Khác với các công ty cổ phần, HTX có cổ phần hạn chế cho mỗi xã viên, hạn chế việc chia  cổ tức, chủ yếu là trả lãi cho xã viên sau khi trừ chi phí thực tế và chia theo tỷ lệ doanh số của xã viên. Như vậy là, về bản chất kinh tế của HTX hoàn toàn khác so với kinh tế của doanh nghiệp và các công ty.

 Về định hướng thể chế ở nông thôn

Hoạt động nghiên cứu khoa học của giáo sư diễn ra trong thời kỳ Đổi mới kinh tế đất nước. Nhiều thể chế ở nông thôn có sự thay đổi, kinh tế hộ nông dân đã thay thế cho kinh tế nông nghiệp tập thể. Kinh tế thị trường có sự hướng dẫn của Nhà nước đã thay thế cho chế độ kế hoạch hóa tập trung. Đất đai thuộc sở hữu nhà nước đã được giao quyền sử dụng lâu dài cho hộ nông dân. Những thực tế này làm thay đổi một cách cơ bản hệ thống thể chế ở nông thôn Việt Nam.

Trước thực trạng các tổ chức dịch vụ Nhà nước chuyển dần sang hoạt động theo hình thức của tổ chức kinh tế với chi phí trao đổi quá cao, không phù hợp với khả năng chi trả của nông dân. Các HTX nông nghiệp thực chất là những xí nghiệp nông nghiệp tập thể, đang nỗ lực chuyển đổi thành tổ chức dịch vụ, song cơ sở vật chất và tiền vốn không còn, khó có khả năng chuyển đổi thành công. Giải quyết vấn đề tổ chức HTX như thế nào? đòi hỏi phải có quan điểm thống nhất về các thể chế nông thôn. Từ kết quả nghiên cứu khảo sát trên địa bàn cả nước, giáo sư cho rằng, ở nông thôn không cần phải có những xí nghiệp Nhà nước kinh doanh, hoặc làm dịch vụ đối với nông dân. Trong xu thế nhiều cơ sở tư nhân, doanh nghiệp cổ phần mua bán với nông dân và một số hộ nông dân đã chuyển hướng sang kinh doanh dịch vụ. Giáo sư nhận xét, đây là hiện tượng tích cực, phù hợp với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, song ông lưu ý cần có biện pháp điều tiết để tránh độc quyền có hại cho lợi ích của đông đảo nông dân.

Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong công nghiệp hóa đất nước

Nặng lòng với sự nghiệp phát triển nông nghiệp, đổi mới nông thôn và nâng cao đời sống nông dân; ông đã hoàn thiện công trình nghiên cứu: “Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong chủ thuyết phát triển của Việt Nam”;  gửi tới Hội đồng Lý luận Trung ương của Đảng, với hy vọng được đóng góp vào xây dựng Văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI. Mở đầu công trình ông đánh giá: “Công cuộc Đổi mới của nước ta thành công nhờ việc quay trở lại nền kinh tế hộ nông dân và kinh tế thị trường. Hiện nay, chúng ta đã chuyển sang một thời kỳ mới, đó là phát triển trong quá trình công nghiệp hóa. Trong giai đoạn phát triển mới này, vai trò của nông dân, nông nghiệp và nông thôn giữ một vai trò quan trọng vì nông dân là nguồn cung cấp lao động chính và là thị trường của công nghiệp”. 

Ông cho biết, trong quá trình công nghiệp hoá, số lớn lao động nông thôn chuyển sang công nghiệp và dịch vụ đô thị hoặc ở nông thôn. Tuy vậy, tại các nước đang phát triển, dân số vẫn tăng nhanh gấp 2 lần so với các nước phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa trước đây. Kết quả nghiên cứu của ông cũng cho thấy, ở nước ta, năm 2020 sản phẩm trong nước sẽ tăng 8% năm với 1/10 từ nông nghiệp, nhưng lao động nông thôn vẫn chiếm tới 55% tổng lao động xã hội. Đây là một khó khăn lớn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn. 

Về nông nghiệp nước nhà ông nhận xét, vấn đề lớn sau quá trình Đổi mới là chất lượng nông sản thấp và giá trị gia tăng không cao. Cần phải cải thiện chất lượng sản phẩm bằng công nghiệp chế biến nông sản, phát triển các sản phẩm có chỉ dãn địa lý, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm quốc tế và sản phẩm hữu cơ. Để làm điều này, xây dựng thể chế quản lý chất lượng nông sản đi đôi với phát triển công nghiệp chế biến nông sản là việc làm cần thiết.

Ông cho rằng, nếu thể chế thị trường nông sản chỉ dựa vào quan hệ nông dân - doanh nghiệp, theo kiểu sản xuất nông nghiệp theo hợp đồng, sẽ dẫn đến độc quyền của doanh nghiệp chế biến và lưu thông; Nhà nước không thể trợ giúp nông dân thông qua doanh nghiệp Nhà nước, mà cần hỗ trợ thông qua các dịch vụ công. Nghiên cứu của ông đã cũng đã chỉ ra, hệ thống cung cấp dịch vụ công do các tổ chức nông dân cùng với nhà nước và thị trường thực hiện, sẽ nâng cao hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ cho nông dân.

Muốn chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ông nhấn mạnh, phải phát triển được các hoạt động phi nông như công nghiệp, xây dựng, buôn bán, vận tải, tài chính và du lịch. Cần tạo nguồn thu từ bán trực tiếp nông sản, bán sức lao động trong vùng, ở đô thị, ở nước ngoài,... và coi hoạt động phi nông là một phần quan trọng của kinh tế hộ nông dân. Theo ông, giữa nông nghiệp và các hoạt động phi nông có một mối quan hệ tương hỗ rất chặt chẽ, không hề cạnh tranh nhau mà có tác động thúc đẩy lẫn nhau.

Vấn đề khiến ông còn nhiều trăn trở đó là, nước ta cũng chưa có một chiến lược công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, trong điều kiện đất ít người đông, quy mô sản xuất nhỏ và năng suất lao động nông nghiệp đang còn rất thấp. Theo ông, một chiến lược công nghiệp hoá hoàn chỉnh, phải bao gồm cả công nghiệp hoá nông thôn. Chiến lược CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn cần phù hợp. Để có một chiến lược công nghiệp hoá đuổi kịp các nước đi trước; ông cho rằng, không thể chỉ bắt chước những gì mà các nước đã làm, mà phải xây dụng hệ thống sáng tạo quốc gia, nhằm tập trung được sức lực của các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu và hệ thống giáo dục như các nước tiên tiến đang thực hiện.

Muốn công nghiệp hoá có chất lượng cao, ông nhấn mạnh, phải xây dựng được đội ngũ lao động mới với lực lượng chủ yếu là thanh niên nông thôn; không thể để họ phải đi tìm việc làm ở đô thị một cách tự phát như hiện nay. Việc chuyển dân nông thôn ra thành thị và khu công nghiệp, cần tiến hành theo một chương trình được hoạch định như chương trình kinh tế mới trước đây. Trong thực thi, cần tiến hành có quy hoạch và nguồn nhân lực cần được đào tạo trong các chương trình phát triển nguồn vốn con người.

Nhìn nhận về kinh tế - xã hội nông thôn trong tiến trình công nghiệp hóa, giáo sư nhận thấy mâu thuẫn chủ yếu hiện nay là khoảng cách giữa nông thôn và thành thị còn lớn. Nếu không tăng được năng suất lao động nông nghiệp thì khó nâng cao thu nhập, khiến nông dân phải rời bỏ nông nghiệp, tự di cư vào các đô thị. Thực tế này, đẩy nông nghiệp vào tình trạng nữ hoá, một số vùng sử dụng đất nông nghiệp kém hiệu quả, và ở nhiều vùng lực lượng lao động bị thiếu hụt nghiêm trọng.

Theo ông, để giải quyết mâu thuẫn này cần phát triển nông thôn gắn với quá trình đô thị hóa. Phát triển đô thị ở nước ta, diễn ra không theo quy hoạch thống nhất, nên đã đi cùng với đầu cơ ruộng đất và tham nhũng. Đô thị hoá như hiện nay làm cho nông thôn kiệt quệ, có nguy cơ mất an ninh lương thực và mất cơ hội biến nước ta thành một cường quốc nông nghiệp.

Từ nhận định, đô thị hóa ảnh hưởng lớn đến phát triển nông thôn; mặt khác, đất nước còn thiếu một chiến lược chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, gắn với quá trình phát triển đô thị. Giáo sư đề xuất, muốn giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn phải có một chiến lược thích hợp, theo hướng xây dựng đô thị vừa và nhỏ trên mọi miền đất nước. Quy hoạch đô thị cần đi đôi với quy hoạch nông thôn trong các quy hoạch, như đã được phổ biến rộng ở nhiều quốc gia; không tập trung vào các siêu đô thị, mà xây dựng đô thị trung bình xung quanh có các vành đai nông nghiệp.

Cho dù phát triển theo hướng nào, song cốt lõi là phải đảm bảo phát triển bền vững. Phát triển bền vững được xác định là quản lý và bảo vệ tốt nguồn lợi tự nhiên, hướng vào thay đổi kỹ thuật và thể chế nhằm bảo đảm thỏa mãn nhu cầu con người, cho cả hiện tại và các thế hệ mai sau. Sự phát triển bền vững trong ngành nông - lâm nghiệp và nghề cá là bảo vệ được đất đai, nguồn nước, các nguồn lợi di truyền động/ thực vật; không làm suy thoái môi trường; thích ứng kỹ thuật, có sức sống kinh tế và chấp nhận được về xã hội.

Ông cũng chỉ ra, một nền nông nghiệp bền vững phải đạt các tiêu chí: Bảo đảm được nhu cầu dinh dưỡng của thế hệ ngày nay và mai sau; cung cấp việc làm bền vững, thu nhập đủ, điều kiện sống và làm việc thích hợp cho những người tham gia sản xuất nông nghiệp; giữ vững, và tăng cường khả năng năng suất của nguồn lợi tự nhiên, nguồn lợi tái tạo,...Để giảm bớt tính dễ bị tổn thương của ngành và muốn thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp, cần có một cuộc Cách mạng xanh thứ hai, nhằm xây dựng một nền nông nghiệp năng suất cao nhưng có sức sống về kinh tế và sinh thái, chấp nhận được về mặt xã hội.

Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn là nội dung quan trọng để công nghiệp hóa đất nước. Theo ông, công nghiệp hoá nông thôn là phải nâng cao được chất lượng và giá trị gia tăng của nông sản, năng suất lao động trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Để trở thành một nước công nghiệp, mục tiêu chiến lược đặt ra là phải giảm một nửa số lao động nông nghiệp. Muốn vậy, một mặt phải tìm cách để tăng nhanh năng suất lao động nông nghiệp và thu nhập của nông dân. Mặt khác, phải chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, để tạo nhiều việc làm trong khu vực dịch vụ và công nghiệp. Chuyển 50% lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, nhường lại đất cho các hộ có đủ năng lực tập trung phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn; chuyển số lớn hộ sản xuất thành các trang trại gia đình sản xuất hàng hóa. Đây là con đường phát triển của kinh tế hộ nông dân như số đông các nước tiên tiến đang làm. Chuyển đổi các hộ phi nông nghiệp sang các xí nghiệp vừa và nhỏ để xây dựng một khu vực phi nông nghiệp và thị trường nông thôn.

Thay cho lời kết

Cả cuộc đời gắn bó với sự nghiệp nghiên cứu nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Những đóng góp của GS.VS. Đào Thế Tuấn đã góp phần quan trọng vào thay đổi diện mạo nông thôn, cải thiện và nâng cao đời sống của người nông dân ở mọi miền đất nước.

Điểm lại những suy nghĩ trăn trở của ông trước những vấn đề rộng lớn về nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước nhà, bài viết hy vọng được góp một tiếng nói tri ân nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh  của ông.

TS. Lê Thành Ý