Cho hay tất thảy đều mây nổi,
Còn với non sông một chút tình.
(Đào Duy Anh)
Năm 1942, khi cuốn Nhà văn hiện đại ra đời, Đào Duy Anh chỉ chiếm một ngôi rất nhỏ trong mắt Vũ Ngọc Phan. Nhưng rồi thời gian như nước qua cầu, khi trí nhớ dân tộc, như một dấu hiệu trưởng thành, biết bỏ bớt đi để lấy thêm vào, thì Đào Duy Anh, tôi nghĩ, vẫn còn trong hành trang đi tới tương lai. Có thể, những tri thức cụ thể của ông, về khoa học xã hội và nhân văn đã và sẽ bị thời gian vượt qua, nhưng những cột mốc mở đường của ông, nhiệt tâm và nhân cách tri thức của ông, “chút tình với non sông” ấy, hẳn còn lại.
Năm 1925, cái năm có nhiều sự kiện chính trị ấy, Đào Duy Anh đang dạy học ở Đồng Hới, chờ cơ hội thi tú tài. Đời sống tỉnh lẻ ở một thị xã ven biển xinh đẹp và thơ mộng dễ làm ngủ một tâm hồn trí thức. May nhờ việc Phan Bội Châu bị áp giải vào Huế an trí qua Đồng Hới mà Đào Duy Anh tỉnh giấc. Ông thấy không thể chôn vùi tuổi thanh xuân của mình ở một không gian nhỏ hẹp như vậy được, nên đã “treo ấn từ quan” vào Sài Gòn làm báo, một nghề mới rất hấp dẫn ở Việt Nam thời bấy giờ. Riêng đối với Đào Duy Anh, báo còn là công cụ quan trọng để đánh thức hồn nước.
Trên đường Nam tiến, Đào Duy Anh dừng lại ở Đà Nẵng và được Huỳnh Thúc Kháng giữ lại để ra Huế làm báo Tiếng Dân. Sau đó ông tham gia hoạt động cách mạng trong Tân Việt. Thậm chí còn được bầu làm Tổng bí thư của Đảng này. Rồi ông bị bắt và được thả1. Ông thôi hoạt động chính trị và chuyển sang hoạt động văn hóa. Có thể nói đây là bước ngoặt lớn trong đời Đào Duy Anh. Một sự xui khiến lớn của số phận để ông được làm đúng với khả năng trời phú cho mình, được trở thành chính mình? Bởi lẽ Đào Duy Anh nhà chính trị thì có thể có nhiều, nhưng nhà văn hóa Đào Duy Anh thì chỉ có một. Là một nhà chính trị hụt (le politique manqué) chuyển sang làm văn hóa, Đào Duy Anh đã mang theo nguyên vẹn cả khối tâm huyết với đất nước, cả tinh thần cách mạng sang địa hạt học thuật. Hơn nữa, ngay từ thời học sinh, ông đã được hun đúc trong một tinh thần yêu quốc văn từ những câu Kiều mẹ ru đến những trang văn quốc ngữ thủa sơ khai. Ông còn rất hâm mộ nền dân chủ tư sản phương Tây qua Rút-xô (Rousseau), Đi-đờ-rô (Diderot)…, hâm mộ chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn và cách mạng Nga. Bởi vậy, ông đến với chủ nghĩa Mác như là một điều tất nhiên. Và khi không còn làm chính trị nữa, thì chủ nghĩa Mác với ông trở thành nhân sinh quan, vũ trụ quan, thành phương pháp nghiên cứu trong các khoa học xã hội cũng lại là một điều tất nhiên.
Thế hệ Đào Duy Anh đón nhận chủ nghĩa Mác với tất cả tấm lòng trinh trắng của mối tình đầu. Ngoài sự hấp dẫn về khía cạnh chính trị (một con đường cứu nước), còn cả một nhận thức xã hội: nó như một chiếc chìa khóa vạn năng có thể mở vào bất cứ vấn đề gì, như một bộ óc điện tử có thể đưa ra đáp án đúng cho mọi câu hỏi. Chủ nghĩa Mác, vì vậy, theo anh Đào Hùng, nhà báo, nhà sử học, con thứ cụ Đào, cũng còn là người vợ thủy chung đi suốt cuộc đời của ông, kể cả vào tuổi xế tà, những năm 1980, khi trên thế giới đã có nhiều người li dị nó. Trong số những người suốt đời trung thành với chủ nghĩa Mác, có người do trước sau không thay đổi niềm tin lúc này đã trở thành tín niệm cá nhân của mình, nhưng cũng còn có người tuy không còn tin nữa nhưng nó đã là máu thịt của đời mình nên không dám dứt bỏ. Đào Duy Anh thuộc loại người thứ nhất.
Ngay từ khi bước chân theo chủ nghĩa Mác, Đào Duy Anh đã dùng khoa học xã hội để giới thiệu học thuyết này, giới thiệu phương pháp nghiên cứu mác xít. Ông chủ trương bộ sách Quan Hải tùng thư cùng với Trần Đình Nam, Võ Liêm Sơn, Phan Đăng Lưu… Các sách do ông và đồng nghiệp của mình lược thuật, biên dịch đều là các sách mác xít như Lịch sử nhân loại, Lịch sử các học thuyết kinh tế, Tôn giáo là gì? Xã hội là gì? Dân tộc là gì?... Bởi vậy, có người coi ông như là một Plê-kha-nốp (Plékhanov), một Lý Đại Chiêu của Việt Nam, người đầu tiên đưa chủ nghĩa Mác vào nước ta một cách công khai. Đến khi chuyển sang làm văn hóa, Đào Duy Anh thực hiện một thao tác ngược lại là dùng phương pháp mác xít để nghiên cứu những vấn đề của xã hội Việt Nam nhằm phục hồi sinh khí của đất nước.
Có thể nói, thức nhận đầu tiên của Đào Duy Anh học giả là vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong chuyển giao và quảng bá các tư tưởng. Đây chính là những kinh nghiệm khi làm sách ở Quan Hải tùng thư. Có làm lược thuật, dịch thuật sách nước ngoài mới thấy sự thiếu thốn thuật ngữ, sự thiếu tường minh của tiếng Việt một ngôn ngữ thiên về tổng hợp. Hơn nữa, ông còn thấy có một khoảng cách ngôn ngữ giữa hai thế hệ người trong xã hội Việt Nam bấy giờ. Thế hệ lớn tuổi ảnh hưởng nhiều của nền học vấn cũ nên thông thạo các từ Hán Việt, nhưng lại không tiếp thu được những thuật ngữ khoa học xã hội mới đến từ phương Tây, còn thế hệ trẻ, những trí thức Tây học, lại thiếu thốn vốn từ Hán Việt. Đào Duy Anh muốn bắc một chiếc cầu giữa hai lớp người đó, xóa bỏ “khoảng cách thế hệ” trước hết về mặt ngôn ngữ, tạo ra một tiếng nói chung. Ông bỏ công ra làm bộ Từ điển Hán Việt và Từ điển Pháp Việt là nhằm vào mục đích ấy.
Cách làm từ điển của Đào Duy Anh rất đặc biệt. Ông chọn nhiều từ mới xuất hiện trong xã hội Việt Nam và giải thích một cách cặn kẽ theo tư tưởng tiến bộ nhất thời bấy giờ. Bởi vậy, từ điển Đào Duy Anh là một hình thức truyền bá hữu hiệu những tri thức hiện đại. Sức sống lâu dài của từ điển Đào Duy Anh (thể hiện qua việc tái bản nhiều lần) chính là ở chỗ này. Cách làm từ điển kiểu này, hiện nay tôi chỉ thấy ở Từ điển Xã hội học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên (Huyền Giang viết). Về cuối đời, Đào Duy Anh còn làm Từ điển Truyện Kiều. Đây là một cuốn từ điển tác phẩm đầu tiên ở Việt Nam. Đào Duy Anh không phải là người đầu tiên trong khoa từ điển học Việt Nam, nhưng ông là người biết nên làm vào lúc nào và nhất là biết làm như thế nào để đáp ứng nhu cầu bức thiết của thời đại. Đào Duy Anh là người quan tâm đến nhiều lĩnh vực. Hình như, với một cái nhìn mới nên ở đâu ông cũng thấy đây là mảnh đất trống cần khai phá. Nhưng lĩnh vực ông quan tâm nhất là sử học, đặc biệt là cổ sử. Không phải ông theo truyền thống Nho giáo luôn coi lịch sử là tấm gương để truyền đạt kinh nghiệm đạo đức và giáo hóa dân chúng. Đào Duy Anh coi lịch sử là phương tiện tốt nhất để thức tỉnh hồn nước, đặc biệt là để nhận diện ở tầm học thuật cái vấn đề bức thiết Việt Nam, anh là ai?
Nghiên cứu lịch sử, Đào Duy Anh sử dụng phương pháp mác xít, nghĩa là ông dùng năm hình thái kinh tế - xã hội làm cái khung lịch sử. Có điều ông không dồn bằng được thực tế lịch sử vào những khuôn đúc sẵn đó mà tôn trọng sự thật khách quan. Có thể vì lí do gì đấy mà dù đã biết đến nhưng lại chưa sử dụng luận điểm về phương thức sản xuất châu Á của Mác như một chìa khóa để lí giải sự “lệch chuẩn” của xã hội phương Đông, Đào Duy Anh đành phải dựa vào tiếng nói im lặng mà hùng hồn của tư liệu. Bởi vậy, trước khi viết về vấn đề nào đấy, ông phải sưu tầm và đọc tư liệu một cách đầy đủ. Ông có ý thức sưu tập tài liệu, tìm mượn, sao chép sách quí ở các kho sách gia đình (tủ sách gia đình Cao Xuân Dục, Nguyễn Đức Đạt), gửi mua sách mới ở Trung Quốc, Pháp nhằm xây dựng tủ sách riêng của mình để làm việc.
Cổ sử Việt Nam với Đào Duy Anh có một sự hấp dẫn đặc biệt. Ông nghiên cứu Việt Nam tận nguồn để phân biệt đâu là yếu tố nội sinh, đâu là yếu tố ngoại sinh, để trên cơ sở đó nghĩ về những vấn đề lịch sử đương đại Việt Nam. Về nguồn gốc người Việt, ông đánh đổ những giải thích sai lầm của các nhà sử học thực dân. Ông cho quê hương đầu tiên của người Việt là ở phía Nam sông Dương Tử, về sau do sức ép của người Hán nên phải di cư xuống châu thổ sông Hồng. Biểu tượng chim Lạc trên trống đồng, thuyền đưa lính, vua Rồng (Lạc Long Quân) đã nói lên điều đó. Văn hóa đồ đồng Lạc Việt không phải đến từ Mã Lai cũng không từ Trung Hoa, nó là bản địa. Đào Duy Anh viết cổ sử với một phương pháp đặc biệt. Tôi nhớ năm 1981, khi mới chuyển ngành từ lính về nhà xuất bản Ngoại văn, tôi đọc Cổ sử Việt Nam say mê như đọc tiểu thuyết. Đào Duy Anh trình bày sự ra đời, được khẳng định và bị thay thế của các giả thuyết khoa học về nguồn gốc của người Việt, kể cả giả thuyết của chính tác giả, kèm theo lời giải thích, đánh giá, bình luận của ông. Bởi vậy, người đọc được cùng với Đào Duy Anh tham gia vào hành trình vận động của tư tưởng khoa học, học được phương pháp nghiên cứu khoa học, thái độ tôn trọng tư liệu, tôn trọng ý kiến người khác, sự tự do tư tưởng trong học thuật. Sau này, đọc các giáo trình lịch sử Việt Nam khác, tôi không còn được hưởng niềm hứng thú tương tự. Ở đấy, không còn những tìm kiếm, những vận động học thuật mà chỉ còn là sự trình bày trung tính các kết quả nghiên cứu của một tập thể các nhà sử học tĩnh quan.
Đào Duy Anh không chỉ muốn viết cổ sử. Ông đã thu thập được những tư liệu về sử trung đại, thậm chí đã có vài phác thảo, nhưng thật đáng tiếc là đa số tư liệu đó đã bị mất trong chiến tranh và nhất là sau khi ông thôi không còn giảng dạy ở trường Đại học Tổng hợp nữa, nên công việc đành bỏ dở.
Chuyển sang Viện Sử, Đào Duy Anh được phân công hiệu đính tư liệu dịch. Một công việc, tuy quan trọng thật, nhưng là khổ sai với người sáng tạo. Nhưng đấy là ý định tốt đẹp của ông Viện trưởng Trần Huy Liệu. một người liên tài: chọn cho ông một vấn đề “hiền lành” để an thân. Thực ra, trong khoa học không có vấn đề hiền lành, chỉ có những đầu óc hiền lành mà thôi. Thứ đầu óc quen nhìn hoặc tập cho quen nhìn vấn đề một cách xuôi chiều. Khi hiệu đính bản dịch Phủ biên tạp lục, một tác phẩm quan trọng của Lê Quý Đôn, Đào Duy Anh bỗng nhận ra mình đang ở trong một lĩnh vực mới: địa lí học lịch sử. Nhà khoa học trong ông trỗi dậy, chiến thắng con người công chức. Ông lại lao vào phát hiện mới. Nhờ thế, chúng ta có tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời. Đào Duy Anh là người đầu tiên xây dựng một khoa học giáp ranh nằm trên đường biên của những khoa học khác, mở ra phương pháp nghiên cứu liên ngành và làm tiền lệ cho một người học trò của ông, Trần Quốc Vượng, đi vào lãnh vực địa - văn hóa.
Về văn hóa Việt Nam, Đào Duy Anh cũng là người viết đầu tiên. Bấy giờ, năm 1936, trong chương trình trung học mới có môn văn hóa Việt Nam. Chưa có tài liệu để giảng dạy, ông bèn viết Việt Nam văn hóa sử cương. Ông không viết theo kiểu giáo trình, mà là tổng hợp, rồi sắp xếp có hệ thống, theo một chủ đích nhất định, “vừa theo phương diện tĩnh vừa theo phương diện động”. Quả thật, văn hóa Việt Nam ở đây được trình bày kết hợp giữa hai trục đồng đại và lịch đại, bởi vậy nó vừa sống động, hấp dẫn, vừa có chiều sâu. Ngoài ra, Đào Duy Anh còn rất chú ý đến kinh tế xã hội, đặc biệt là yếu tố địa lí: đó vừa là văn hóa vừa là sự lí giải đặc điểm của văn hóa. Việt Nam văn hóa sử cương là cuốn lịch sử văn hóa đầu tiên. Về sau có người hỏi vì sao ông không viết một cuốn khác đầy đủ hơn, ông trả lời “theo quan niệm cho văn hóa dân tộc là bao gồm những giá trị do dân tộc đã sáng tạo ra trong lịch sử thì tôi thấy rằng trước khi nghiên cứu cái tổng thể ấy hãy nghiên cứu lịch sử của từng giá trị, tức nghiên cứu lịch sử của kĩ thuật, lịch sử của tôn giáo, lịch sử của triết học, lịch sử của mỗi môn nghệ thuật, lịch sử của mỗi môn khoa học, thì quả là việc một người không làm xuể”. Ngày nay, văn hóa học phát triển, quan niệm về văn hóa đã khác, không còn là số cộng của lịch sử các thành tố của nó, nhưng vẫn chưa có thêm một cuốn lịch sử văn hóa Việt Nam nào của cá nhân cũng như tập thể. Và cuốn Sử cương của cụ Đào vẫn là cuốn lịch sử duy nhất.
Cũng vì dạy học mà Đào Duy Anh nghiên cứu Truyện Kiều, một viên đá tảng của văn học Việt Nam trung đại. Khảo luận về Kim Vân Kiều, tuy vậy nặng về văn học sử hơn là thẩm định văn chương. Đóng góp của Đào Duy Anh trong khảo cứu Truyện Kiều trước hết là ở xác định “thời điểm” Nguyễn Du viết Truyện Kiều: đa số các học giả đoán ông viết sau khi đi sứ về, bởi lẽ có thể thời gian ở Trung Hoa ông mới có dịp tiếp xúc với tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân, thấy hay mới đem về diễn ra quốc âm. Đào Duy Anh chứng minh rằng Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều trước khi đi sứ, thậm chí “có thể vào đầu những năm mới theo họ Nguyễn”, bởi lẽ Kim Vân Kiều truyện đã phổ biến trước đó ở Việt Nam. Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh không phải là tình cờ, mà cốt để giãi bày “tâm sự”. Hay như bạn ông, Phạm Quý Thích viết: “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy, Tân thanh đáo để vị thùy thương”. Bản Tân Thanh này rốt cục vì thương ai mà viết ra? Vì thương Thúy Kiều hay thương mình? Đào Duy Anh đã nêu rõ được cái tâm sự, cái động cơ của Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều. Cái tâm sự, mà theo ông, thì các nhà phê bình thời bấy giờ tuồng như không để ý.
Vấn đề nguồn gốc Truyện Kiều, Đào Duy Anh cũng có cống hiến nhất định. Những người “quên” nguồn gốc Truyện Kiều ở Thanh Tâm Tài Nhân, cho đấy là một sáng tác hoàn toàn của Nguyễn Du, đánh đồng hiện thực năm Gia Tĩnh đời Minh trong Truyện Kiều với hiện thực xã hội của Việt Nam bấy giờ và để coi ông như một nhà hiện thực chủ nghĩa lớn, nên không chấp nhận ông có thái độ phản động chống Tây Sơn. Ngược lại, có những người coi Truyện Kiều chỉ là một “bản dịch” đơn thuần, nên không thể gán tất cả cái hay ở đó cho Nguyễn Du được. Đào Duy Anh cho rằng Truyện Kiều là một “sáng tác hoàn toàn”, dĩ nhiên sáng tác theo qui luật của văn học trung đại, “một biểu hiện của vấn đề giao lưu và kế thừa văn hóa”. Không chỉ có Nguyễn Du mới làm thế. Racine, Corneille ở Pháp, Shakespeare ở Anh cũng làm như thế. Vì vậy, việc tồn tại một Kim Vân Kiều truyện không làm giảm giá Nguyễn Du, mà ngược lại, lại làm đối chứng để thấy rõ hơn cái thiên tài sáng tạo của ông, từ việc “hoán cốt đoạt thai” các nhân vật, đến sự Việt hóa các văn liệu, thi liệu Trung Hoa. Không phải tự nhiên mà thi nhân tự gọi tác phẩm của mình là một bản Tân Thanh.
Cũng trên tinh thần đó, Đào Duy Anh đã tìm và phiên âm lại bản gốc Truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, trước khi được Nguyễn Thiện chữa lại dưới ảnh hưởng của Truyện Kiều. Đó là mẫu mực trong công việc giám định văn bản, mà người bạn và cũng là người đồng chí hướng với ông là Hoàng Xuân Hãn đã thực hiện đầu tiên.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác, Đào Duy Anh xem xét lại những hệ thống triết học khác, đặc biệt các hệ tư tưởng chi phối đời sống dân tộc như Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Với Khổng giáo phê bình tiểu luận (1943), Đào Duy Anh trình bày lại một cách có phê phán lịch sử Khổng giáo và Khổng học. Ông cho rằng Khổng giáo ra đời và tồn tại cùng với chế độ phong kiến nên cũng chỉ tiêu vong cùng với chế độ phong kiến, nhất là với cơ sở kinh tế của nó. Phải nói rằng luận điểm này đến nay vẫn là cơ sở để nhận định Nho giáo, dù cho đã có ý kiến ngược lại rằng Nho giáo không chỉ là sản phẩm của chế độ phong kiến: nó đã ra đời trước đấy và sẽ còn tồn tại sau đấy.
Nghiên cứu Đạo giáo, Đào Duy Anh quan tâm trước hết đến Lão giáo, đặc biệt là cuốn Đạo Đức Kinh. Ông không thỏa mãn với các bản dịch đã có, nên đã tự dịch lấy cho mình một bản để tìm hiểu cho kĩ hơn. Không đồng ý với nhà đạo học Cao Xuân Huy, người cho tư tưởng của Lão Tử không phải duy tâm và cũng không phải duy vật mà cao hơn tâm và vật. Ông xem xét Lão Tử từ quan điểm giai cấp và duy vật để đi đến kết luận: tư tưởng Lão Tử chủ yếu là duy vật biện chứng và có lẫn những yếu tố duy tâm thần bí.
Đóng góp vào nghiên cứu Phật giáo của Đào Duy Anh là một thiên khảo luận về Thiền học Lí Trần. Xuất phát từ một nghịch lí là: “Thời Lí Trần, nhất là thời Trần, từ vua quan quí tộc đến nhân dân đều say mê đạo Phật, một thứ tôn giáo yếm thế và xuất thế, đến như vậy mà tổ tiên ta bấy giờ lại đánh giặc giỏi như vậy?”. Hẳn đạo Phật thời ấy phải có một cái gì đấy đặc biệt. Đào Duy Anh thấy điều đặc biệt ấy là ở chỗ Thiền tông là giáo phái nhấn mạnh “Phật tức tâm” và chủ trương “đốn ngộ”, một chủ trương đặt niềm tin vào con người, tin vào sức mạnh của tâm người. Cái lòng tin ấy gây cho con người một sức năng động mạnh mẽ và sức năng động này đến lượt nó, lại tạo ra sức năng động của xã hội, của tính anh hùng dân tộc ta thời bấy giờ. Trần Thái Tông vị vua sáng lập ra nhà Trần lại là tác giả của Khóa hư lục, tác phẩm tiêu biểu của Thiền tông Việt Nam. Còn Trần Nhân Tông, vị vua anh hùng của nhà Trần lại là tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm. Cả hai người đều kết hợp một cách tốt đẹp hoạt động tu hành và hoạt động kinh bang tế thế. Đó chính là tính tích cực của Thiền tông Việt Nam. Đào Duy Anh còn góp mặt ở nhiều lĩnh vực khác nữa, hầu như ở đâu mà ông đến, thậm chí chỉ đi qua, cũng để lại dấu ấn. Tuy không phải là một người quảng canh, nhưng những người đi mở đường, dẫu không muốn cũng dễ bị buộc phải trở thành người quảng canh. Đào Duy Anh là một người mở đường như vậy cho phương pháp mác xít trong khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam.
Đào Duy Anh thuộc tầng lớp trí thức Tây học bản địa. Đây là những người thuộc thế hệ thứ hai của trường Pháp Việt. Tuy học vấn thường chỉ dừng lại ở Thành chung, Tú tài, nhưng trình độ văn hóa của họ lại rất cao. Vì họ biết tự học. Hơn nữa, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc do phong trào đòi ân xá Phan Bội Châu và đám tang Phan Chu Trinh hun đúc từ thuở thiếu thời nay chuyển thành khát vọng xây đắp một nền văn hóa và khoa học nước nhà khiến cho họ học tập và làm việc vô tư đến quên mình.
Đào Duy Anh tiêu biểu cho mẫu nhà bác học tự đào tạo đó. Thực ra, với một nhà khoa học thì việc tự học là chuyện đương nhiên. Nhưng với một người chỉ đi học đến Thành chung rồi phải đi dạy để kiếm sống như Đào Duy Anh thì việc tự học là cần thiết. Hơn nữa, trong bối cảnh nền giáo dục thuộc địa bấy giờ, chỉ có tự học mới vượt thoát ra ngoài để tiếp thu văn hóa Pháp ở chính quốc. Đào Duy Anh đã học hàm thụ (qua thư từ) một trường đại học ở Pháp. Những tác phẩm của ông như Việt Nam văn hóa sử cương, Khảo luận về Truyện Kiều, Cổ sử Việt Nam… đều nảy sinh trên cơ sở những bài giảng ở trung học hoặc đại học. Khi đã có ý đồ dựng thành sách rồi thì lại tiếp tục học hỏi thêm để tự hoàn chỉnh. Cứ thế, làm để học, học để làm. Song có điều đáng nói là, ở Đào Duy Anh hai quá trình này xoắn luyến với nhau là một, nhiều khi không phân biệt được đâu là học, đâu là làm. Ví như khi cần tìm hiểu Đạo Đức Kinh của Lão Tử, ông đọc rất nhiều bản để tham chiếu. Thấy một “độ chênh” (écart) rất lớn giữa các bản dịch và các chú giải, ông bèn tự dịch lấy một bản cho mình và của mình. Và trên cơ sở bản dịch ấy, ông nghiên cứu tư tưởng của Lão Tử. Cũng vì nhận thức xã hội nước Sở thời Chiến Quốc có nhiều nét tương đồng với xã hội người Việt, nên Đào Duy Anh đã dịch Li Tao của Khuất Nguyên, coi đó là một tài liệu văn hóa lịch sử quan trọng đối với việc tìm về bản sắc văn hóa dân tộc. Nhưng khi dịch tác phẩm này, Đào Duy Anh đã tìm thấy tâm sự của mình trong những vần thơ của nhà thi hào cổ đại Trung Hoa.
Và cũng vì làm việc như một nhu cầu tự thân, nên ông không màng danh cũng không cầu lợi. Theo vợ Đào Duy Anh kể lại, trong thời gian chờ phân công về Viện Sử, ông đã dịch chơi một số sách, trong đó có cuốn Lịch sử mĩ thuật Trung Hoa. “Cuốn sách này anh dịch rất công phu, vì phải tra cứu nhiều tên người, tên tác phẩm hội họa cổ, chỉ biết qua tên gọi chứ chưa ai thấy các bức tranh đó, nên rất khó đoán ra nội dung. Cuốn sách này dịch xong, biết khó mà in được, nên anh cho đánh máy làm nhiều bản, gửi cho một số bạn họa sĩ như các anh Sĩ Ngọc, Phạm Văn Đôn. Mục đích dịch sách của anh là giúp cho người khác đọc, nên dù có được in hay không, anh vẫn cứ làm. Anh cũng không nghĩ đến việc có nhuận bút hay không, đã thế lại còn phải bỏ tiền ra thuê người đánh máy để gửi cho bạn bè”. Và vào những năm cuối đời, khi thấy sức khỏe không cho phép mình làm việc được nữa, Đào Duy Anh cho đi rất nhiều sách vở, bản thảo kể cả những công trình ông đang viết dở. Ông chỉ nghĩ làm sao có ích cho mọi người mà không cần biết đến những trang bản thảo đó trôi giạt đến những bờ bến nào, đã “hóa thân” vào những cuốn sách của ai…
Một khía cạnh khác khi nói về tự học của Đào Duy Anh là học ở nhiều nguồn. Có lẽ đây cũng là ưu thế của những người tự đào tạo so với những người được/bị đào tạo, ít ra là ở ta. Tự học xuất phát từ nhu cầu nội tại của mình, nên không bị các quyền uy nhà trường, các nhà học phiệt ngoài xã hội áp đặt, có thể tự mình làm thầy mình, hoặc tự mình làm học trò của tất cả mọi người. Rồi đối chiếu, lí giải những ý kiến trái ngược nhau, những luận điểm tương đồng với nhau để xây dựng lấy cho mình một tư tưởng riêng, một bản lĩnh khoa học riêng.
Viết về cụ ông Đào Duy Anh không thể không nhắc đến cụ bà Trần Thị Như Mân. Cùng với Sương Nguyệt Anh (con gái Nguyễn Đình Chiểu), Đạm Phương nữ sử, bà Trần Thị Như Mân là những người phụ nữ đầu tiên làm báo ở Việt Nam. Tờ Phụ nữ tùng san (1929) do bà chủ trương là một trong hai tờ báo phụ nữ hiếm hoi thời bấy giờ, tờ kia là Phụ nữ tân văn (1928-1933) do ông bà Nguyễn Đức Nhuận làm chủ. Sau khi ông Đào Duy Anh thôi không hoạt động chính trị chuyển sang làm văn hóa, thì bà coi sự nghiệp của chồng là sự nghiệp của riêng mình, tuy vẫn không ngừng giúp đỡ những người hoạt động bí mật và về sau vẫn tham gia kháng chiến trong hội phụ nữ. Ngoài sự giúp đỡ ông tiền in sách… bà còn làm tư liệu, chép lại bản thảo… Tóm lại, bà là “hậu phương lớn” của ông. Nhiều người nói tử vi cụ Đào Duy Anh là “thân cư thê”, nhưng tôi nghĩ, đa số những nhà khoa học Việt Nam thành đạt đều thân cư thê cả. Phải chăng đó là truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nàng Châu Long chăn tằm dệt vải nuôi Lưu Bình thi đỗ làm quan. Còn cụ Tam nguyên Yên Đổ khi vinh qui về đến đầu làng thì bà vợ tấm cám của ông vẫn đang bì bõm cấy lúa ở cánh đồng xa…
Năm 1972, sau khi viết xong tập hồi kí Nhớ nghĩ chiều hôm (mà mười bảy năm sau mới được in), Đào Duy Anh có đưa cho một nhà nghiên cứu văn hóa vẫn được ông coi là bạn vong niên cầm về nhà đọc với lời nói kèm: đây chỉ là tập hồi kí vờ. Thấy bạn ngơ ngác, ông vội giải thích: vờ ở đây là chỉ nói được một khía cạnh của cuộc đời mình mà là khía cạnh dễ nhìn thấy nhất. Tuy nhiên, dẫu không trực tiếp quen ông, nhưng bạn đọc hôm nay của cuốn hồi kí học thuật quan trọng này vẫn thấy được, dù chỉ là thấp thoáng, con người thứ hai ẩn kín của ông qua những trang dịch Sở từ của Khuất Nguyên, Thơ chữ Hán của Nguyễn Du và Khảo luận về Truyện Kiều… Ông nghiên cứu tâm sự người xưa để kí gửi vào đấy tâm sự của người nay. Tâm sự ấy bắt nguồn từ đoạn đời đầu hoạt động chính trị chảy tràn sang quãng đời sau hoạt động văn hóa. Đúng như ông nói trong Lời đầu sách của cuốn hồi kí: “Người ta có biết tôi cũng chỉ ở Lịch sử dân tộc mà có buộc tội tôi cũng chỉ ở Lịch sử dân tộc”. Tuy nhiên, trong cô đơn ông vẫn thanh thản, buồn một “nỗi buồn trong sáng”, bởi ông biết rằng ông đã thuộc về Lịch sử.
Chọn hiệu là Vệ Thạch, Đào Duy Anh nguyện trọn đời làm con chim Tinh Vệ ngậm đá lấp biển. Chim thì nhỏ mà biển học thì lớn vô cùng. Hơn nữa, mỗi một viên đá ném xuống biển thì không làm cho biển cạn đi, trái lại nước biển dâng lên, mở rộng thêm biên giới nước. Vì thế người ta mới cho rằng càng biết thêm bao nhiêu thì sự chưa biết càng lớn lên theo bấy nhiêu. Tuy vậy, hình ảnh Vệ Thạch có thể là ngậm ngùi, nhưng không hề gây ra sự mủi lòng. Nó là một hình ảnh rất người. Bởi chỉ có con người mới hành động một cách tuyệt vọng và tuyệt vời như vậy. Nhưng điều đáng lưu ý hơn là những viên đá tảng mà Đào Duy Anh ném xuống biển học không chìm mất tăm, mà đã tạo thành những cột mốc, đôi khi là những cột mốc đầu tiên, chỉ đường cho những người sau ra khơi.