TS Hoàng Xuân Trường: Nghiên cứu kiến thức bản địa một số giải pháp và nâng cao chất lượng hiệu quả chăn nuôi bò HMông

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng được bảo vệ để lấy bất cứ học vị nào.Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.

9-1654060561.JPG
TS Hoàng Xuân Trường

MỞ ĐẦU

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Dân tộc Hmông ở Việt Nam hiện nay có trên một triệu người, còn được biết đến với các tên gọi khác như Mẹo, Mèo, Miếu, Mán Trắng. Người Hmông gồm các nhóm địa phương như Hmông Trắng, Hmông Hoa, Hmông Đỏ, Hmông Đen, Hmông Xanh và Na Miẻo. Người Hmông sống ở các tỉnh miền núi Bắc Bộ và một số ít ở miền núi tỉnh Nghệ An. Hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ chủ yếu là trồng ngô, lúa trên nương rẫy, ruộng bậc thang, ngoài ra còn trồng lanh, bông, lúa mạnh. Công cụ chủ yếu là chiếc cày. Người Hmông chăn nuôi chủ yếu là bò, lợn, gà và ngựa. Họ có một số nghề thủ công như: rèn, đồ gỗ, đan lát và dệt vải (Nguyễn Văn Huy và cs, 2011).

Người Hmông có nhiều giống cây trồng và vật nuôi quý nay đã trở thành sản phẩm đặc sản như ngô nếp để nấu mèn mén, nấu rượu ngô men lá; cải mèo; gà đen; lợn đen bản địa và đặc biệt là giống bò Hmông là giống bò kiêm dụng, thịt thơm ngon. Với người Hmông, con bò được coi là “ngân hàng sống” và là niềm tự hào của mỗi gia đình (Hoàng Xuân Trường và cs, 2010). Chăn nuôi bò của người Hmông trên vùng núi cao thường gặp khó khăn về khí hậu, thời tiết, có những năm mùa đông lạnh dưới 00C và kéo dài trên 30 ngày (mùa đồng năm 2008), nhiều nơi có băng tuyết, làm cạn kiệt nguồn thức ăn ngoài tự nhiên. Người Hmông thường sống trên vùng núi cao, nơi đất canh tác rất hạn chế, thiếu đất để trồng cây thức ăn cho bò. Bên cạnh đó còn có khó khăn về nguồn nước phục vụ chăn nuôi, vào mùa đông nhiều hộ phải gánh nước xa nhà 3-5km, đường đi lại rất khó khăn. Tuy nhiên, người Hmông rất chịu khó, chịu gian khổ và đã có tập quán, kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Thành công lớn nhất của người Hmông đó là vẫn giữ được các giống vật nuôi tốt như bò Hmông, lợn đen bản địa và gà đen. Ngày nay có nhiều hộ người Hmông đã có kinh tế khá và giàu, nhiều hộ nuôi bò cho thu nhập cao và ổn định.

Trong chăn nuôi bò người Hmông có nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là phương thức vỗ béo bò trong vụ đông, khi mà nguồn thức ăn như cỏ tự nhiên, phụ phẩm nông nghiệp hạn chế, kiến thức kinh nghiệm này không có ở những dân tộc khác cùng sinh sống trên địa bàn như Dao, Tày và Nùng... Vào thời điểm vụ đông xuân, bò thường bán được giá cao nhất trong năm. Trong vụ đông xuân, người Hmông nuôi và vỗ béo bò bằng nhiều loại lá cây được lấy về từ trên rừng, sau đó thái nhỏ và trộn với cháo ngô cho bò ăn. Người Hmông thường vỗ béo bò đực, sau các vụ cày kéo bò sẽ được đưa vào vỗ béo để bán (Hoàng Xuân Trường và cs, 2010).

Những kiến thức, kinh nghiệm bản địa trong chăn nuôi bò đã một phần giúp người Hmông tồn tại và phát triển được trên các vùng núi cao, nơi có ít đất canh tác và có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Để hiểu rõ hơn một số kiến thức bản địa trong nuôi và vỗ béo bò đực của người Hmông trong vụ đông, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu kiến thức bản địa và một số giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả chăn nuôi bò Hmông”. 

2. MỤC TIÊU

Tổng hợp và xác định được một số kiến thức bản địa của người Hmông trong nuôi và vỗ béo bò Hmông trong vụ đông

Xác định được một số giải pháp nâng cao chất lượng thịt và hiệu quả chăn nuôi bò Hmông tại tỉnh Cao Bằng.

3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN

 Luận án đã tổng hợp và phân tích được hiện trạng hệ thống chăn nuôi và thị trường tiêu thụ bò Hmông Cao Bằng, đây là căn cứ để xác định được một số kiến thức bản địa của người Hmông trong nuôi và vỗ béo bò trong vụ đông trước khi bán.

 Luận án đã phân loại và xác định được giá trị dinh dưỡng của một số loại cây thức ăn bản địa mà người Hmông đã sử dụng trong vụ đông để nuôi và vỗ béo bò Hmông. Hiện nay, 41 loại cây thức ăn đã được làm tiêu bản lưu giữ tại Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đã đóng góp và làm phong phú thêm vào bảng thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của thức ăn gia súc, gia cầm Việt Nam.

 Luận án đã xác định được ảnh hưởng của kiến thức bản địa trong vỗ béo bò đực truyền thống của người Hmông tới khả năng tăng khối lượng và chất lượng thịt bò Hmông 2 tuổi, 3 tuổi và 4 tuổi khi nuôi trong thời gian 60 ngày.

 Luận án cũng đã xác định được khẩu phần ăn mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất khi sử dụng các loại cây thức ăn bản địa phối trộn thêm thức ăn tinh để vỗ béo bò Hmông 2 tuổi. Các kết quả trong nghiên cứu này giúp ích lớn cho các doanh nghiệp, HTX chăn nuôi bò Hmông thâm canh và sản xuất theo chuỗi giá trị phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành chăn nuôi và nông nghiệp.

 Luận án đã xác định được mô hình về tổ chức sản xuất liên kết với thị trường, tạo ra kênh hàng chất lượng từ đó nâng cao chất lượng thịt và hiệu quả chăn nuôi bò Hmông tại Cao Bằng.

 Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu tiếp theo, làm tài liệu giảng dạy cho các cơ sở đào tạo, các cơ quan trong nông nghiệp, các doanh nghiệp, hợp tác xã và người chăn nuôi bò Hmông.

4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

  Mặc dù đã có một số các nghiên cứu trước đó về bò Hmông, nhưng việc nghiên cứu phân tích kỹ, mô tả và tư liệu hóa cụ thể một số kiến thức bản địa của người Hmông trong việc sử dụng các cây thức ăn bản địa để nuôi và vỗ béo bò Hmông trong vụ đông là hoàn toàn mới và có tính hệ thống.

Luận án đã nghiên cứu phân loại được 41 loại cây thức ăn khác nhau; phân tích được thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của 6 loại cây thức ăn bản địa được bò ưu thích và người Hmông đã sử dụng để nuôi và vỗ béo bò trong vụ đông. Hiện các tiêu bản thực vật được lưu giữ trong Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, là nguồn tư liệu gốc cho các nghiên cứu tiếp theo về cây thức ăn cho bò tại miền núi phía Bắc.

Nghiên cứu đã bổ sung và tối ưu hóa kiến thức bản địa trong việc phối trộn khẩu phần và lựa chọn bò đực để đưa vào vỗ béo mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn khẩu phần bản địa

Các kết quả nghiên cứu về tổ chức sản xuất, xây dựng thương hiệu, xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc và liên kết với thị trường theo chuỗi giá trị cho sản phẩm thịt bò Hmông tại Cao Bằng là cách làm mới phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành chăn nuôi.

Luận án cung cấp thông tin và luận chứng khoa học giúp cho các nhà quản lý có thêm các căn cứ về lý luận và thực tiễn để xây dựng chính sách phát triển chăn nuôi bò miền núi phía Bắc mang lại hiệu quả cao hơn

 

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI BÒ THỊT TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

nuoibo3-1654061451.jpg
Tổng đàn bò của Việt Nam đến ngày 01/10/2016 cả nước có khoảng 5,5 triệu con bò các loại

1.1.1. Tình hình chăn nuôi bò thịt trên thế giới

          Chăn nuôi gia súc trên toàn thế giới có xu hướng tăng trong những năm trở lại đây, cụ thể số lượng gia súc toàn thế giới năm 2010 là 1,416 tỷ gia súc thì năm 2016 là 1,475 tỷ gia súc, tăng 59 triệu, theo http://www.fao.org

1.1.1.1. Số lượng và mức tiêu thụ thịt bò

Số lượng bò trên thế giới theo USDA thống kê năm 2016 là 998.313 nghìn con, trong đó tập trung nhiều nhất tại Ấn Độ là 303.350 nghìn con chiếm 30.39%; thứ 2 là Brazil với 226.037 nghìn con chiếm 22.64% và thứ 3 là Trung Quốc với 100.085 nghìn con chiếm 10,03%, cụ thể trong bảng 1.1.

Bảng 1.1. Bảng xếp hạng mười nước đứng đầu thế giới về số lượng bò năm 2016

                                                                ĐVT: 1000 con

1-1654059694.jpg
Nguồn:USDA, 2016

Theo USDA năm 2016 cả thế giới đã tiêu thụ 129,5 tỷ pound tương đương 58,275 tỷ kg thịt bò, trung bình mỗi người tiêu thụ là 7,83 kg/người/năm. Trong đó Uruguay tiêu thụ thịt bò bình quân đầu người cao nhất trên thế giới, sau đó là Argentina và Hồng Kông. Người Việt Nam tiêu thụ 2,57 kg thịt bò/người/năm. Riêng Pháp trong những năm qua thì lượng tiêu thụ thịt bò có giảm 2-3%/năm, trung bình mỗi năm Pháp tiêu thụ 1,55 triệu tấn thịt bò, trung bình một người Pháp tiêu thụ 1,5 kg thịt mỗi tuần tương đương 78,21 kg/người/năm. Các nhà dinh dưỡng ở Pháp khuyến nghị chỉ nên dùng 500 gam trong một tuần, vì ăn quá nhiều sẽ gây bệnh về tim mạch và béo phì. Bên cạnh đó, các nhà bảo vệ môi trường và rừng của Pháp cũng đã đưa ra các con số cảnh báo như: Để sản xuất ra 1 kg thịt bò cần 323 m2 đất và 15.000 lít nước, gây ô nhiễm môi trường do phân gia súc và phát thải khí nhà kính, cứ sản xuất ra 1 kg thịt thì chịu trách nhiệm cho việc phát thải ra 34,2 kg CO2 (Theo https://www.planetoscope.com).

Bảng 1.2. Tiêu thụ thịt bò trên thế giới theo quốc gia năm 2016

2-1654059726.jpg
Nguồn: USDA, 2016

1.1.1.2. Giống bò thịt

Những giống bò thịt nổi tiếng đều có nguồn gốc từ châu Âu như giống Charolais, Limousin của Pháp; Hereford, Shorthorn, Angus của Anh, Simmental của Thụy Sĩ, BBB của Bỉ… Sau này, các giống chuyên thịt khác cho vùng nhiệt đới và á nhiệt đới được tạo ra từ bò Brahman (có u) với các giống bò chuyên thịt châu Âu (không có u) như Santa Gertrudis, Brangus, Braford, Beefmaster (Mỹ), Brahmousin, Chabray (Pháp); Droughtmaster (Úc). Đặc điểm nổi bật của giống bò chuyên dụng thịt là có thân hình to, con cái trưởng thành nặng từ 500 – 800 kg; con đực trưởng thành nặng từ 900 – 1.400 kg, tỷ lệ thịt xẻ đạt từ 60 – 65%, thích nghi với nuôi chăn thả và vỗ béo. Giống bò nuôi lấy thịt ở các nước khu vực châu Á là các giống bò địa phương nhiệt đới có u và không có u kiêm dụng cày kéo, thịt và sữa. Một số nước vùng Trung và Nam Á có giống bò năng suất cao như bò Red Sindhi, Sahiwal, Tharparkar (theo Trịnh Văn Tuấn, 2015)

1.1.2. Tình hình chăn nuôi bò thịt ở Việt Nam

Trong 3 năm gần đây chăn nuôi bò phát triển ổn định và có xu hướng tăng. Chăn nuôi bò thịt tăng lên do nhiều doanh nghiệp đang thực hiện và hoàn thiện các dự án chăn nuôi bò quy mô lớn, nhu cầu thị trường có cả trong nước và xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc. Theo Cục Chăn nuôi (2016) tại thời điểm 01/10/2016 đàn bò có gần 5,5 triệu con, tăng 2,4%, trong đó đàn bò sữa là 282,9 nghìn con, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước, còn lại là bò thịt. Đàn bò phát triển tốt, góp phần tăng thu nhập và tích lũy cho người dân.

 Những năm gần đây, quá trình cơ giới hóa nông thôn đã chuyển mục đích nuôi bò từ cày kéo sang mục đích sản xuất thịt và sữa. Mặc dù vậy, chăn nuôi bò vẫn giữ vị trí quan trọng trong hệ thống sản xuất nông nghiệp, vì những lý do sau:

- Là vật nuôi xóa đói, giảm nghèo bền vững, có khả năng thích nghi cao với các vùng sinh thái khác nhau.

- Tăng sản phẩm thịt cho xã hội.

- Tăng thu nhập cho người chăn nuôi.

- Giải quyết sức kéo cho những vùng chưa có điều kiện cơ giới hóa, đặc biệt là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và vùng khó khăn.

- Khai thác và tận dụng hiệu quả nhất nguồn thức ăn sẵn có, các phụ phẩm nông nghiệp và công nghiệp chế biến (bỗng rượu, bia, bã sắn, mía...) để tạo ra những sản phẩm có giá trị cho xã hội.

- Cung cấp phân bón cho trồng trọt, là nguồn phân bón tốt nhất trong các loại phân gia súc.

- Góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông nhàn, người già, trẻ em và kết hợp việc đi làm đồng với chăn nuôi bò.

- Người Hmông đã kết hợp rất tốt việc đi làm trên nương với “Chăn nuôi bò trên lưng”.

1.1.2.1. Số lượng bò

Tổng đàn bò của Việt Nam đến ngày 01/10/2016 cả nước có khoảng 5,5 triệu con bò các loại, trong đó đàn bò thịt khoảng 5,2 triệu con. Số lượng bò có biến động qua các năm và theo các vùng sinh thái có sự khác biệt lớn. Từ năm 2010 đến năm 2013 số lượng  đàn bò giảm dần và bắt đầu tăng dần từ 2013 tới năm 2016.

Bảng 1.3. Số lượng bò theo vùng sinh thái qua các năm 2010 – 2016

ĐVT: 1000 con

3-1654059752.jpg
  Nguồn: Tổng cục thống kê, 2015 và Cục chăn nuôi, 2016

1.1.2.2. Năng suất và sản lượng thịt bò

Ở vùng núi phía Bắc hiện nay có 3 giống bò chính đang được người dân nuôi nhiều đó là bò vàng, bò lai (lai Sind, Droughtmaster, Bradman…) và bò Hmông.

Bò vàng: có tầm vóc bé, sinh trưởng chậm và tỷ lệ thịt thấp. Bò vàng 24 tháng tuổi con cái đạt 150 – 160 kg, con đực đạt 175 – 190 kg. Tăng khối lượng bình quân từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi đạt 190 – 220 g/con/ngày, tỷ lệ thịt tinh thấp từ 32 – 33% (Lê Quang Nghiệp, 1984). Khối lượng trưởng thành thấp và tỷ lệ thịt tinh thấp nên sản lượng thịt tinh của một bò thịt chỉ đạt từ 50 – 60 kg.

Bò lai Sind: Bò đực lai Sind là bò kiêm dụng trưởng thành nặng 400-450 kg. Bò cái 250-300 kg, bê sơ sinh nặng 18-20 kg. Sản lượng sữa bình quân 800-1.000 lít/chu kỳ, cá biệt có những con trong một chu kỳ vắt sữa cho đến trên 2.000 lít. Ngày cao nhất có thể đạt 8-10 lít sữa/con/ngày. Tỷ lệ mỡ sữa rất cao 5,1-5,5%. Tỷ lệ đẻ khá, khoảng cách lứa đẻ 13 tháng. Tỷ lệ thịt xẻ đạt gần 50%. So với bò Vàng, bò lai Sind có khối lượng tăng 30-35%, sản lượng sữa tăng gấp 2 lần.

Từ năm 2010 đến năm 2016, sản lượng thịt tăng chậm với tốc độ tăng bình quân là 6,39 – 6,95%/năm, thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng bình quân của thịt lợn (20,66%/năm) và thịt gia cầm (11,36%). Tổng sản lượng thịt bò hơi năm 2014 của Việt Nam là 293 nghìn tấn, bình quân đầu người là 3,23 kg/người/năm; năm 2015 là 299 nghìn tấn, bình quân đầu người là 3,26 kg/người/năm (Tổng cục Thống kê, 2015) và năm 2016 là 308 nghìn tấn, bình quân đầu người là 3,27 kg/năm (Cục chăn nuôi, 2016), trong khi trung bình của thế giới là khoảng 7,8 kg/người/năm (USDA, 2016).

Bảng 1.4. Sản lượng thịt bò hơi bình quân theo đầu người qua các năm

4-1654059776.jpg
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2015 và Cục chăn nuôi, 2016

1.1.2.3. Xu hướng chăn nuôi bò thịt

Trong những năm trở lại đây, xu hướng phát triển chăn nuôi bò chuyển dịch từ lấy sức kéo sang nuôi lấy thịt, từ chăn nuôi quảng canh sang chăn nuôi tập trung, chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ chuyển sang quy mô lớn, tập trung hơn. Người dân, các THT, HTX, doanh nghiệp đã biết áp dụng TBKH kỹ thuật trong việc quản lý giống, trồng cây thức ăn, phối trộn khẩu phần, phòng trừ dịch bệnh và liên kết lại để phát triển chăn nuôi bò bền vững hơn. Bên cạnh việc chăn nuôi có tổ chức lại, thì khâu lưu thông, vận chuyển và khâu giết mổ, bảo quản, phân phối cũng được quan tâm đầu tư hơn. Các cơ sở, các khu giết mổ được hình thành có sự tham gia của tư nhân. Hệ thống siêu thị, nhà hàng cùng các cửa hàng thực phẩm có xu hướng tìm nguồn thịt bò chất lượng ổn định, chăn nuôi hướng an toàn, sinh thái, hữu cơ, đồng thời phải đảm bảo các tiêu chuẩn về cơ sở chăn nuôi, an toàn vệ sinh thú ý và ATTP.  Thông tin về nguồn gốc xuất xứ, kỹ thuật chăn nuôi chăn nuôi, giết mổ, bảo quản ngày càng được minh bạch hơn với người tiêu dùng. Một số tỉnh đã và đang xây dựng thương hiệu cho sản phẩm bò và thịt bò như Cao Bằng, Hà Giang, Đắk Lắk, Gia Lai và Phú Yên.

Từ năm 2014 tới nay đã có một số doanh nghiệp đầu tư, xây dựng và phát triển trang trại chăn nuôi bò thịt với qui mô lớn 10-20 nghìn con, chủ yếu họ nhập bò từ các nước về vỗ béo 3-4 tháng sau đó bán tại thị trường nội địa, các doanh nghiệp lớn phải kể đến là Hoàng Anh Gia Lai; Lê Dũng Linh – Quảng Bình; Công ty cổ phần chăn nuôi Bình Hà - Hà Tĩnh; Công ty Trung Đồng, tại Đồng Nai; Trang trại Út Huy ở Long An...Tại Quảng Bình, Công ty Hòa Phát đang đầu tư xây dựng trang trại 20 nghìn con bò. Tại Quảng Ninh, Công ty Phú Lâm đang có dự án đầu tư nuôi 40 nghìn con... Với sự tham gia đầu tư chăn nuôi bò quy mô lớn từ các công ty đã làm tăng khả năng nhập siêu và làm cho giá thịt bò trong nước có xu hướng giảm, đây là thách thức lớn cho các hộ chăn nuôi bò thịt trong cả nước. Bởi vậy, các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ cần phải tiếp tục tổ chức liên kết lại, thực hiện các hoạt động mua chung bán chung nhằm giảm giá thành sản phẩm và xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình, tạo ra các kênh bán hàng có giá trị và bền vững.

TS Hoàng Xuân Trường

Link nội dung: https://www.nongthonvaphattrien.vn/ts-hoang-xuan-truong-nghien-cuu-kien-thuc-ban-dia-mot-so-giai-phap-va-nang-cao-chat-luong-hieu-qua-chan-nuoi-bo-hmong-a1010.html